CHÁNH PHÁP LÀ THUỐC THẦN DIỆU CHỮA DỨT MỌI TÂM BỆNH CỦA CHÚNG SANH!

Thư viện Chánh Pháp / Chơn Lý / NGHI THỨC TỤNG NIỆM (Kinh nhật tụng của Phật giáo Khất Sĩ)

, Thứ Hai 2011-10-01

 

NGHI THỨC TỤNG NIỆM

(KINH NHẬT TỤNG CỦA PHẬT GIÁO KHẤT SĨ)

 

Ý NGHĨA VÀ CÁCH TỤNG NIỆM

Tụng là đọc tụng, Niệm là suy nghĩ, nhớ tưởng. Tụng niệm là miệng đọc tụng, tâm nhớ nghĩ, tâm và miệng hợp nhất, chú định vào lời kinh tiếng pháp. Tụng niệm có nhiều ý nghĩa:

- Tụng niệm để giữ tâm hồn được trong sạch, giao cảm với các tâm niệm tối cao. Tụng niệm lại là cách huân tập tâm thức rất tốt, rất dễ dàng.

- Tụng niệm để ôn lại những điều Phật dạy, hầu lấy đó làm phương châm cho đời sống hàng ngày và gieo giống Bồ-đề giải thoát vào tâm thức.

- Tụng niệm để kiềm chế thân, khẩu trong khuôn khổ thanh tịnh, trang nghiêm, chính đáng, không cho nói năng, hành động, buông lung theo tập quán đê hèn, tham dục.

- Tụng niệm để cầu an, để ngăn lòng tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng lâu đời hầu tránh khỏi tai họa do tội lỗi, nghiệp chướng gây nên.

- Tụng niệm để cầu siêu, để chuyển tâm niệm của người khác, khiến họ xa lìa nghiệp nhơn cấu ác, rời khỏi cảnh giới tối tăm, siêu sanh về Lạc quốc.

- Tụng niệm để làm cho tiếng Pháp âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hóa mọi người, cải tà quy chánh.

- Tụng niệm để kích thích, nhắc nhở mình và người trên đường làm lành, học đạo.

- Tụng niệm để hướng lòng bi nguyện đến tất cả chúng sanh, cầu cho chúng sanh thuận hòa, vui vẻ.

- Tụng niệm để tỏ lòng sám hối tội lỗi trước ngôi Tam Bảo, là nơi hoàn toàn thanh tịnh, không chút tội lỗi nhiễm ô.

Vì những ý nghĩa đó, người đã tin Phật nên phải phát tâm tụng niệm và tụng niệm đúng cách. Khi tụng niệm, phải giữ gìn trang nghiêm, tránh mọi sự ồn ào phức tạp, tránh mọi điều làm kích động, làm ý đắm lợi mê danh, tham luyến trần tục. Chỉ tụng niệm trước bàn Tam Bảo, trong đạo tràng thanh tịnh, hoặc nơi thích hợp chính đáng. Không tụng niệm trước chỗ thờ quỷ thần, cúng đồ mặn, đốt vàng mã theo tục lệ mê tín dị đoan, không thích hợp với Phật pháp.

 

LỜI KHUYÊN TRƯỚC KHI TỤNG KINH

- Các Phật tử cần nên dọn mình cho trong sạch.

- Thắp 3 nén hương, lễ Phật 3 lạy.

- An tọa xong chắp tay hướng về đức Phật bắt đầu trì tụng.

- Muốn tụng thành phần nào, trang số mấy, hãy coi theo mục lục ở trang đầu hoặc trang cuối thì sẽ rõ.

- Khi trì tụng chỉ đọc thường, chậm rãi, điều hòa, nghe cho dễ hiểu đặng hành theo. Chớ nên dùng sắc tướng, âm thinh trầm bỗng, du dương làm sai ý nghĩa kinh pháp.

- Khi đọc dứt một đoạn có chữ O thì đánh một tiếng chuông và lễ một lạy. Các nghi thức tùy theo trường hợp có thể linh động đọc nhiều hay ít cũng được, tùy theo thời giờ.

- Mỗi đêm cần nên thọ trì tại tịnh xá hoặc tư gia, nhất là mỗi tháng 4 ngày cúng hội: mùng 8, rằm, 23 và 30 (tháng thiếu 29). Phật tử cần nên quy tựu về tịnh xá sám hối và nghe kinh học pháp để tu tâm dưỡng tánh, hầu phát triển tinh thần đạo hạnh.

- Kinh nghĩa này rất dễ đọc, mau hiểu, dành cho các giới đồng bào Phật tử, ai siêng năng trì tụng sẽ được mở mang trí tuệ, lợi lạc thân tâm, tu hành tinh tiến.

 

-------------------------------------

 

MỤC LỤC

 

I.       Nghi thức Cúng dường Tam Bảo

II.      Kinh cúng Cửu huyền

III.    Nghi thức Thọ trì

IV.    Nghi thức Sám hối

V.     Nghi thức Cầu an

VI.    Nghi thức Cầu siêu

VII.   Các kinh tụng thêm

VIII. Các bài kệ tụng



 


I. NGHI THỨC CÚNG DƯỜNG

( TRAI HỘI TẠI TƯ GIA HOẶC TỊNH XÁ )

 

1. DÂNG HƯƠNG

Khói hương xông thấu mấy tầng xanh

Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành

Trên khói hương này xin Phật ngự

Chứng minh đệ tử tấc lòng thành. O

 

2. LỄ PHẬT

Kính lạy Phật từ bi cứu thế

Đem đạo lành phổ tế chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí huệ quang minh soi đường. O

       

3. LỄ PHÁP

Kính lạy Pháp là phương giải thoát

Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa

Pháp tu chứng đắc kịp giờ

Độ người qua đến bến bờ bên kia. O

 

4. LỄ TĂNG

Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật

Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần

Tự mình giác ngộ lý chân

Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O

 

5. CÚNG DƯỜNG TAM BẢO

Kính lạy Phật, Pháp,Tăng tam bảo

Chứng lòng con hiếu thảo cúng dường,

Của này vốn của thiện lương

Chúng con tạo sắm bằng phương pháp lành,

Nay phát nguyện lòng thành dâng cúng

Xin ơn trên hưởng dụng chứng minh.

Nguyện cầu cho cả chúng sanh

Nhất là quyến thuộc gia đình chúng con

Kẻ hiện tại vẹn tròn quả phước

Người thác rồi lại được siêu sinh

Ngưỡng nhờ Phật pháp oai linh

Ơn dày Tam Bảo phước lành ban ra. O

 

6. HỒI HƯỚNG CẦU NGUYỆN

Làm xong được chút phước lành

Con xin hồi hướng chúng sanh hưởng nhờ.

Mênh mông biển khổ không bờ

Trần gian chìm đắm mịt mờ tối đen,

Bỗng đâu núi báu hiện lên

Tháp vàng rực rỡ vượt trên cao vời,

Cơ duyên Chánh pháp ra đời

Lối tu tối thượng độ người trầm mê,

Tinh thần nẻo thẳng cao xuê

Mà đường vật chất thấp nê bùn lầy,

Càng buông bỏ dưới chân này

Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao,

Nhiều người chung sức với nhau

Công phu tứ chúng góp vào điểm tô

Đạo vàng cao quý bày phô

Cũng vì lợi ích chung cho thế trần,

Hôm nay con mới góp phần

Nguyện xin tất cả xa gần hưởng chung,

Mỗi người học đạo tỏ thông

Tăng, Ni khất sĩ ra công thuyết bài,

Cầu xin Giáo pháp hoằng khai

Được thường tỏ sáng lại hay thơm lành,

Nguyện cho đạo đức thạnh hành

Cảnh đời Đông độ đổi thành Tây phương… O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 



 


II. KINH CÚNG CỬU HUYỀN

 

(1. DÂNG HƯƠNG – 2. LỄ PHẬT – 3. LỄ PHÁP – 4. LỄ TĂNG)

 

5. KINH CÚNG CỬU HUYỀN THẤT TỔ

Thành kính lạy Cửu huyền Thất tổ

Ngõ đáp ơn báo bổ sanh thành

Con quy y Phật tu hành

Cửu huyền Thất tổ lòng thành chứng tri

Noi theo hạnh từ bi của Phật

Bỏ dứt đi những tật xấu xa

Trau giồi đức hạnh thuần hòa

Đạo thành cứu độ mẹ cha, Cửu huyền.

Nay phẩm vật hiện tiền dâng cúng

Hương, đăng, hoa chúc tụng cầu xin

Cửu huyền Thất tổ hương linh

Chứng lòng hiếu thảo ân sinh thuở đầu.

Công dạy dỗ cao sâu thăm thẳm

Công dưỡng nuôi khó gẫm gì hơn

Ăn cay, uống đắng không sờn

Vì con đau khổ không hờn phiền chi

Cha mẹ rất từ bi hà hải

Nội ngoại đồng bác ái tình thương

Cửu huyền Thất tổ đồng nương

Từ đời vô thỉ khôn lường kiếp sinh…

Ân dưỡng dục minh minh như hải

Ân sanh thành tợ Thái Sơn cao

Con nay muốn đáp công lao

Đền ơn, trả nghĩa thế nào cho xong!

Lời Phật dạy mênh mông biển khổ

Cõi Ta-bà không chỗ dựa nương,

Chúng sanh vì bởi tình thương

Tình ân, tình ái mà vương nghiệp sầu,

Sanh tử mãi biết đâu mà kể

Cứ trầm luân trong bể ái hà

Cũng vì bản ngã chấp ta

Tham lam, sân giận, cùng là si mê…

Những tội lỗi không hề dứt bỏ

Đường tử sanh nên khó bước qua,

Làm con  muốn cứu mẹ cha

Cửu huyền, Thất tổ, ông bà đền ơn

Đem phẩm vật cúng dâng Tam Bảo

Nhờ chư Tăng tâm đạo cầu nguyền

Cầu cho Thất tổ Cửu huyền

Siêu sinh Tịnh độ phước duyên đủ đầy.

Ai muốn đáp công thầy dạy dỗ

Hay đền ơn Thất tổ Cửu huyền

Chúng sanh tất cả các miền

Thì nên phát đại lời nguyền độ tha.

Trước xuất thế lìa xa cõi tục

Sau diệt tiêu lòng dục, tánh phàm

Chẳng còn ưa chuộng, muốn ham

Thân tâm thanh tịnh, già-lam dựa kề

Tu chứng đắc Bồ-đề Phật quả

Độ chúng sanh tất cả siêu thăng

Vượt lên cửu phẩm thượng tầng

Là phương trả nghĩa đáp bằng công lao.

Ai hiếu tử mau mau ghi nhớ

Muốn đáp đền mối nợ từ xưa

Cần nên tu niệm sớm trưa

Công dày quả mãn, phước thừa báo ân. O

 

6. HỒI HƯỚNG CHUNG

Phẩm kinh con đọc vừa xong

Xin đem hồi hướng cầu đồng thế gian

Nguyện cho dương thới bình an

Âm siêu ba cõi, Tây phang đặng về

Người người thoát khỏi trầm mê

Chóng thành quả giác, vẹn bề đạo chơn. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần).

         



 


III. NGHI THỨC THỌ TRÌ

( TẠI TỊNH XÁ HOẶC TẠI TƯ GIA MỖI ĐÊM )

 

1. DÂNG HƯƠNG

Khói hương xông thấu mấy tầng xanh

Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành

Trên khói hương này xin Phật ngự

Chứng minh đệ tử tấc lòng thành. O

 

2. LỄ PHẬT 

Kính lạy Phật từ bi cứu thế

Đem đạo lành phổ tế chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí tuệ quang minh soi đường. O

 

3. LỄ PHÁP 

Kính lạy Pháp là phương giải thoát

Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa

Pháp tu chứng đắc kịp giờ

Độ người qua đến bến bờ bên kia. O

 

4. LỄ TĂNG 

Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật

Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần

Tự mình giác ngộ lý chân

Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O

 

5. XƯNG TỤNG PHẬT BẢO

Phật là đấng tối cao giác ngộ

Lập đạo tràng tế độ chúng sanh

Luật nghiêm giới cấm ban hành

Làm người dẫn lộ chỉ rành nẻo tu.

Cõi trần thế mịt mù tăm tối

Biết đâu là đường lối thoát thân,

Đầu tiên một bậc siêu nhân

Cất mình thoát tục bước chân lìa đời.

Nay đệ tử là người mong mỏi

Dứt trần duyên theo dõi học hành

Kính dâng một tấm lòng thành

Phụng thờ đức Phật đạo lành cao siêu. O

 

6. XƯNG TỤNG PHÁP BẢO

Pháp của Phật giáo điều chánh lý

Hạnh xuất gia khất sĩ thanh bần

Một y, một bát tùy thân

Pháp môn khất thực giáo dân độ đời.

Pháp giải thoát khỏi nơi thế sự

Vãng sanh về Phật xứ đạo tràng

Sống chung tu học dễ dàng

Tham thiền, nhập định mở đàng huyền môn.

Lời  thuyết pháp hùng hồn cảnh tỉnh

Độ chúng sanh dứt bệnh hôn trầm

Quý thay diệu pháp thậm thâm

Chúng con hết dạ thành tâm phụng thờ. O

 

7. XƯNG TỤNG TĂNG BẢO

Tăng là các nhà sư thanh tịnh

Thể không không, chẳng dính bụi trần

Ly gia, cắt ái khinh thân

Dứt trừ bổn ngã lãnh phần độ sanh.

Tăng là kẻ thừa hành Phật pháp

Đem đạo mầu dạy khắp thế gian,

Hồng trần đám lửa cháy lan

Nước mưa cam lộ xối tràn tắt ngay.

Chư Thánh Tăng công dày vô hạn

Độ chúng sanh bao quản nhọc nhằn

Đội ơn cảm đức không ngằn

Chúng con thành kính lễ hằng dám sai. O

 

8. QUY Y TAM BẢO

Quy y Phật, con hết lòng kính Phật

Lượng từ bi con nguyện học theo Ngài

Thương chúng sanh khắp vũ trụ muôn loài

Một tánh giác, thể đại đồng vạn vật. O

 

Quy y pháp, con gắng tu học Pháp

Được thức tâm, giải thoát cõi lầm mê

Pháp vô sanh chư Phật thảy nương về

Bát chánh đạo cùng Tứ y chánh pháp. O

 

Quy y Tăng, con kính trọng nhà Tăng

Hòa hiệp chúng lẽ sống chung bình đẳng

Thanh tịnh giới thể trang nghiêm vắng lặng

Đức chứa đầy kiêm đủ cả tài năng. O

 

9. THỌ TRÌ NGŨ GIỚI

Một gìn giới cấm SÁT SANH

Những ngày chay lạt không đành giết ăn

Thú kia chẳng đoạn mạng căn

Tránh xa nhiều kiếp thù hằn chém đâm. O

Hai gìn giới cấm GIAN THAM

Của người chẳng đặng lấy làm của ta

Những mong kiếp khác sanh ra

Khỏi đường nghiệp báo đọa sa lạc lầm. O

Ba gìn giới cấm TÀ DÂM

Chẳng đem đạo nghĩa trăm năm đổi dời

Không hay nhiễm thói chơi bời

Về sau tránh khỏi kiếp đời dâm bôn.  O

Bốn gìn giới cấm VỌNG NGÔN

Không lời quỷ quyệt tinh khôn gạt lường

Hại người tội ác phải vương

Tránh điều điên đảo, đau thương không ngừa. O

Năm gìn giới cấm SAY SƯA

Rượu kia chất độc nguyện chừa bỏ ra

Đặng cho những kiếp về xa

Khỏi điều mê muội vạy tà tối tăm. O

 

(Có thể tụng thêm các bài kệ, hoặc Cầu an, Cầu siêu, sau rốt là Hồi hướng)

 

10. HỒI HƯỚNG

Phẩm kinh con mới đọc rồi

Nguyện đem phước đức vun bồi chúng sanh

Người người thức tỉnh tu hành

Bến mê phút chốc biến thành ao sen,

Lý kinh sáng suốt như đèn

Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền

Nguyện con cùng pháp có duyên

Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu

Ngày ngày tinh tấn công phu

Pháp đăng chẳng để mờ lu lạnh lùng,

Cúi xin đức Phật chứng lòng

Con nguyền quyết chí gắng công tu hành. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần).

 

11. PHÁP QUY GIỚI

Kính lạy Phật.

Kính lạy Pháp.

Kính lạy Tăng.

Đệ tử nguyện quy y Tam bảo

Gìn một lòng sám hối ăn năn

Giữ ngũ giới, luật răn nghiêm nhặt:

Một, không giết những loài sanh vật

Hai, không tham, trộm cắp của ai

Ba, không dâm, tinh khiết nào phai

Bốn, không dối sai ngoa kẻ khác

Năm, không uống rượu say gian ác.

Lại nguyện thêm giảm các tham, sân

Cùng si mê, quyết dạ giải lần

Tu thêm hạnh ân cần bố thí

Phép thập thiện con luôn gắng chí

Nguyện tu thân, khẩu, ý cho an

Quyết một lòng gắng giữ vẹn toàn

Mong cầu sự bình an hỷ lạc…

Nương Tam bảo, theo đàng chánh giác

Cầu ơn trên nước pháp rưới ban

Khiến đều cho tất cả thế gian

Mọi người đặng theo đàng thiện nghiệp.

Nhờ lượng cả ơn trên độ tiếp

Đệ tử nguyền trọn kiếp quy y

Ngưỡng bề trên xuống đức Từ bi

Thường chứng chiếu lòng thành đệ tử. O

 

12. PHÁP TỊNH TÂM 

Giữ thân trong sạch, hạnh phúc biết bao!

Giữ miệng trong sạch, hạnh phúc biết bao!

Giữ ý trong sạch, hạnh phúc biết bao!

Thân cùng khẩu, ý trọn lành

Xa lìa tội lỗi, gần cành hoa sen

Ai mà thân, khẩu, ý rèn

Giữ theo thiện nghiệp, thân bèn đặng an

Ba nghiệp hằng đặng rảnh rang

Thác rồi nhập Thánh là đàng xưa nay

Bị mắng chửi lòng chẳng phai

Với người tham lẫn giận gay chẳng sờn

Giữ mình thanh tịnh là hơn

Dầu ai gây dữ, oán hờn mặc ai. O

 

 



 

 


IV. NGHI THỨC SÁM HỐI

 

1. SÁM HỐI TAM BẢO

Phật, Pháp, Tăng ngôi nhà tế độ

Để thế gian làm chỗ dựa nương,

Những ai hủy báng khinh thường

Ấy là cắt đứt con đường vãng sanh.

Nay đệ tử lòng thành sám hối

Xét lại mình tội lỗi từ xưa

Hoặc là nhiều kiếp dây dưa

Chập chồng nghiệp quấy có thừa núi cao

Thân đựng chứa biết bao tật xấu

Các việc làm theo dấu tệ hư

Hoặc là phỉ ố nhà sư

Hoặc là cử chỉ dường như hợm mình

Nào những lúc vô tình nói quấy

Bởi thói quen thấy chỗ lạc lầm

Khinh chê diệu pháp thậm thâm

Buông lung nghiệp miệng vương lâm tội trời

Cùng tâm ý khi đời, ngạo vật

Tính cho rằng không Phật, Thánh, Tiên

Hoặc là tin tưởng quàng xiêng

Mà đường chánh tín lãng quên tấm lòng…

Từ vô thỉ chập chồng tội lỗi

Nay con nguyền sám hối ăn năn,

Quấy xưa xin quyết chừa răn

Ngưỡng mong đầy đủ thiện căn trở về. O

 

2. SÁM HỐI TAM NGHIỆP

Trước Phật đài con xin sám hối

Xét lại mình tội lỗi từ xưa

Hoặc là nhiều kiếp dây dưa

Chập chồng nghiệp quấy có thừa núi cao

Thân đựng chứa biết bao tật xấu

Bước chân đi theo dấu đường đời

Cách ăn thói ở tùy thời

Nào con có tránh khỏi nơi tội tình…

Tội thứ nhất: Sát sanh thực nhục

Thuở bé thơ đến lúc trưởng thành

Vì con, cha mẹ cam đành

Giết loài muông thú nuôi sanh mạng này,

Con cũng có tự gây lấy nghiệp

Cùng bao người gián tiếp trợ duyên

Thức ăn bán ở thị thiền

Sát sanh tội bởi đồng tiền trao tay,

Thân con lỡ tạo gây nghiệp ác

Muôn vạn loài oan thác vì con

Ví như thây ướp hằng còn

Từ xưa chất để nên hòn núi cao,

Tính một kiếp dồn bao nhiêu kiếp

Thân con đây tội nghiệp dẫy đầy

Xét ra thì thịt xương này

Lại là xương thịt muôn thây tạo thành!

Cũng có lúc lòng lành bất nhẫn

Nghe tiếng kêu hối hận giật mình

Máu me ràn rụa thân hình

Mắt trông cảnh thảm động tình xót xa!

Con nguyện hứa thứ tha tất cả

Lòng dặn lòng cải hóa tự thân

Học đòi theo bậc triết nhân

Tạm dùng rau trái nuôi thân qua ngày.

Nhưng trong cõi trần ai bụi bặm

Giữ làm sao khỏi lấm tấc son

Biết bao nghiệp sát cỏn con

Nhiều lần vô ý dập dồn tội khiên,

Nay đến trước Phật tiền sám hối

Lượng từ bi xá tội lỗi lầm,

Ăn năn gội rửa lòng phàm

Con nguyền sửa đổi việc làm từ nay. O

Tội thứ hai: Tham tài trộm đạo

Thói vạy tà gian xảo xấu xa

Hoặc từ nhiều kiếp trải qua

Hoặc thời thơ bé tạo ra tội tình,

Nhìn lại tấm thân hình trưởng đại

Hẳn có khi tội trái lôi thôi

Của người nhọc đổ mồ hôi

Dùng mưu chước lấy đắp bồi thân ta. O

Tội thứ ba: Dâm tà loạn phép

Lỗi đạo hằng mang nghiệp vào thân

Tấm lòng yểm cựu nghinh tân

Làm sao tránh khỏi xoay vần trái oan,

Đường tình ái đã chan chan tội

Nẻo dâm tà càng lỗi nặng lung

Tấm thân tội lỗi thẹn thùng

Kiếp này, kiếp khác chập chồng bằng non. O

Tội thứ tư: Vọng ngôn dối trá

Lợi cho mình, thiên hạ hại thân

Vẻ duyên thêu dệt xa gần

Muôn điều rối rắm, trăm phần đảo điên

Thói lưỡng thiệt hai bên đâm thọc

Cho đôi đàng trách móc lẫn nhau

Mở lời để hại về sau

Một câu thất đức họa sâu không ngừa. O

Tội thứ năm: Say sưa chè rượu

Lỗi giới điều do tửu nhập tâm,

Thêm lòng ham muốn tham lam

Càng thâu chất chứa càng làm mê say,

Bệnh sân hận ai tài chuyên chữa

Nổi nóng lên như lửa cháy rừng,

Si mê đâu biết tỏ tường

Cõi mơ muôn vạn nẻo đường nhá nhem. O

Năm giới chánh cộng thêm giới phụ

Tam nghiệp chung tính đủ thập điều,

Phật ban giới cấm đã nhiều

Mà con lỗi phép chẳng theo luật Ngài,

Hoặc vô ý không hay tội trượng

Hoặc yếu hèn chẳng cưỡng được tâm

Tự làm hoặc xúi người làm

Hoặc nghe thấy ác lòng phàm đua vui.

Từ vô thỉ tạo rồi nghiệp chướng

Đến những nay vô lượng kiếp sinh

Mỗi phen mang lấy thân hình

Tạo gây lắm thứ tội tình nghiệp duyên.

Tấc lòng thành con nguyền sám hối

Xét tội xưa tránh lỗi về sau

Cầu xin nước tịnh rưới vào

Tâm con được sạch làu làu hôm nay!

Con cố gắng từ đây sắp tới

Giữ đúng theo ngũ giới Phật truyền

Cần trau tam nghiệp trọn hiền

Pháp tu thập thiện vẹn tuyền mới cam.

Mong đến chốn già-lam Phật cảnh

Giã cõi đời ảo ảnh phù du

Con về con học phép tu

Làm dân đất Phật thiên thu sống còn.

Đường giải thoát lòng con chí dốc

Quyết phăng tìm theo gốc tu chơn

Nương về Tam Bảo là hơn

Con nguyền chẳng dám khinh lờn dể duôi.

Được thưởng thức chút mùi vị đạo

Xin nhớ ơn Tam Bảo ghi lòng

Con nay sám hối vừa xong

Nghiệp trần nhẹ phủi không không sạch rồi,

Con cầu nguyện người đời tỉnh thức

Thọ phước lành đạo đức thưởng ban

Cầu xin Phật hiện thế gian

Cầu xin Tam Bảo cứu an muôn loài. O

 

3. KỆ SÁM HỐI

( TỐI 14, RẰM, 30, MÙNG MỘT )

 

Cúi đầu lạy trước bửu đài

Con xin sám hối từ rày ăn năn

Xưa nay lỗi phạm điều răn

Do thân, khẩu, ý bị màn vô minh

Gây ra nghiệp dữ cho mình

SÁT SANH HẠI VẬT chẳng tình xót thương

Giết ăn hoặc bán không lường

Vì lòng tham lợi, quên đường thiện nhân

Oan oan tương báo cõi trần

Trầm luân biển tối, chịu phần khổ đau

Xét ra nhơn, vật khác nào

Hại nhơn, nhơn hại, mắc vào trả vay. O

Lại thêm TRỘM SẢN CƯỚP TÀI

Công người cực nhọc hằng ngày làm ra

Lòng tham tính bảy lo ba

Mưu kia kế nọ, lấy mà lo thân

Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần

Làm cho người phải lắm lần than van. O

TÀ DÂM tội trọng muôn ngàn

Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay

Vợ con người phải lầm tay

Mất trinh thất tiết, phải tai tiếng đời

Xấu cha, hổ mẹ nhiều lời

Xa lìa chồng vợ, rã rời lứa đôi. O

VỌNG NGÔN giả dối ngoài môi

Chuyện không nói có, có rồi nói không

Dụng lời đâm thọc hai lòng

Phân chia quyến thuộc, vợ chồng, anh em

Mắng nhiếc, chửi rủa, pha gièm

Xóm làng, cô bác, chị em không chừa

Nói lời vô ích dây dưa

Phí giờ quý báu, hết trưa đến chiều… O

UỐNG RƯỢU sanh hại rất nhiều

Ham ăn mê ngủ, nói liều chẳng kiêng

Say sưa ngã gió đi xiêng

Nằm bờ té bụi, như điên khác nào

Loạn tâm, cuồng trí mòn hao

Nhiều người vì rượu biết bao hư nhà,

GIAN THAM những của người ta

Mong sang đoạt được lòng tà mới ưng,

NẾT SÂN nóng giận không chừng

Toan làm hại chúng bâng khuâng trong lòng,

SI MÊ tin chạ chẳng phòng

Nghe đâu theo đó, không thông chánh tà

Chẳng tin Phật pháp cao xa

Thậm thâm vi diệu, bao la trên đời.

Nếu con cố ý phạm lời

Hoặc là vô ý lỗi thời điều răn

Hoặc xúi kẻ khác làm xằng

Hoặc nghe thấy ác, lòng hằng vui theo

Phạm nhằm ngũ giới, thập điều

Vì chưng thân, khẩu, ý nhiều lầm sai

Lỗi từ kiếp trước lâu dài

Đến kiếp hiện tại miệt mài lắm phen,

Hoặc vì tà kiến đã quen

Khinh khi Tam Bảo lòng bèn chẳng tin,

Cho rằng người chết hết sinh

Phạm vào đoạn kiến tội tình nặng thay,

Hoặc phạm thường kiến tội dày

Sống sao đến thác sanh lai như thường…

Tội nhiều kể cũng khôn lường

Vì con ngu dốt không tường phân minh,

Dể duôi Tam Bảo hại mình

Bởi chưng không thấu vô minh nghiệp tà,

Cho nên chơn tánh mới xa

Tối tăm chẳng rõ sai ngoa thuở đầu,

Hóa nên khờ dại đã lâu

Để cho hoàn cảnh mặc dầu kéo xoay

Khác nào bèo bị gió lay

Linh đinh giữa biển lạc loài bờ sông!...

Xét con tội nặng chập chồng

Kiếp xưa cho đến hiện trong kiếp này,

Con xin sám hối từ đây

Nguyện cầu Tam Bảo đức dày độ cho.

Tội xưa chẳng hạn nhỏ to

Con nguyền dứt cả chẳng cho thêm vào,

Tâm lành dốc chí nâng cao

Cải tà quy chánh, chú vào Phật ngôn

Cho con khỏi chốn mê hồn

Đến nơi cõi Phật, Thế Tôn gần kề

Thoát vòng khổ não tối mê

Hưởng miền Cực lạc mọi bề thảnh thơi.

Từ nay dứt bỏ việc đời

Căn lành gieo giống, chẳng rời công phu

Mặc ai danh lợi bôn xu

Con nguyền giữ hạnh người tu thoát trần,

Trước là độ lấy bổn thân

Sau giúp quyến thuộc được phần tiêu diêu.

Sám hối tội lỗi đủ điều

Duyên lành đều cũng ít nhiều kết xây

Con xin hồi hướng quả này

Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường,

Cùng là thân thích tha phương

Hoặc đã quá vãng, hoặc thường hiện nay

Chúng sanh ba giới, bốn loài

Vô tưởng, hữu tưởng chẳng nài đâu đâu

Nghe lời thành thật thỉnh cầu

Xin mau tựu hội lãnh thâu quả này,

Bằng ai xa cách chưa hay

Cầu xin thiên chúng mách ngay với cùng

Thảy đều thọ lãnh hưởng chung

Dứt rồi tội lỗi, thoát vòng nạn tai.

Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài

Đạt thành chánh quả hoằng khai đạo lành.

Nguyện cho Phật pháp thạnh hành

Đời đời tươi nhuận phước lành thế gian. O

  

4. CẦU NGUYỆN CHUNG

(ĐỌC THẦM, TRƯỚC KHI LUI RA)

 

Ngưỡng cầu các đấng chư Thiên

Trong vòng tịnh xá ngự yên hằng ngày

Ngự nơi đền tháp xưa nay

Ngự nơi biệt thất, nơi cây bồ-đề

Chúng con xin hội họp về

Đặng dùng phước thí tiện bề cúng dâng.

Cầu xin hộ độ chư Tăng

Cửa thiền ẩn náu, phước Hằng hà sa,

Tỳ-khưu chẳng luận trẻ già

Cao hạ trung thấp hoặc là mới tu

Thiện nam, tín nữ công phu

Đều là tín chủ, cũng phù trợ nhân

Những người trong khắp thôn lân

Kiều cư châu quận được phần an khương

Chúng sanh bốn loại không thường

Noãn, thai, thấp, hóa khi nương pháp lành

Giải thoát pháp báu nên hành

Đặng mà dứt khổ chuyên quanh đọa đày

Cầu xin hưng thạnh lâu dài

Pháp thiện tri thức các Ngài mở mang

Bậc tu xin được bình an

Cầu cho Tăng chúng các hàng hòa nhau

Lại thêm phẩm hạnh thanh cao

Đắc quả lợi ích kíp mau kịp thì

Cầu xin Pháp bảo hộ trì

Cho người tu đã quy y Phật rồi

Xin cho hết thảy người người

Tiến hóa trong pháp Phật noi giáo truyền. O

 

5. HỒNG DANH BẢO SÁM

Rộng đức từ bi cứu chúng sanh

Rộng lòng hỷ xả vớt hàm linh

Quang minh rực rỡ trang nghiêm tướng

Đệ tử nhất tâm lễ kính tin! O (1 lạy)

Nam-mô quy y Kim Cang Thượng Sư. O (1 lạy)

Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. O (1 lạy)

 

Nay con phát tâm

Chẳng cầu phước báu

Ở cõi Nhơn, Thiên

Thinh văn, Duyên giác

Bồ-tát quyền thừa

Chỉ mong cầu được

Bậc tối thượng thừa,

Phát lòng chánh giác

Nguyện cả chúng sanh

Khắp cùng pháp giới

Một lúc đồng thành

Bồ-đề Vô thượng. O (1 lạy)

 

Nam-mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết chư Phật. O (1 lạy)

Nam-mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết tôn Pháp. O (1 lạy)

Nam-mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết Hiền Thánh Tăng. O (1 lạy)

Nam-mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. O (1 lạy)

 

1. Nam-mô Phổ Quang Phật. O (1 lạy)    

2. Nam-mô Phổ Minh Phật. O (1 lạy)

3. Nam-mô Phổ Tịnh Phật. O (1 lạy)

4. Nam-mô Đa-Ma-La-Bạt Chiên-Đàn Hương Phật. O (1 lạy)

5. Nam-mô Chiên-Đàn Quang Phật. O (1 lạy)

6. Nam-mô Ma-Ni Tràng Phật. O (1 lạy)

7. Nam-mô Hoan Hỷ Tạng Ma-Ni Bảo Tích Phật. O (1 lạy)

8. Nam-mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật. O (1 lạy)

9. Nam-mô Ma-Ni Tràng Đăng Quang Phật. O (1 lạy)

10. Nam-mô Huệ Cự Chiếu Phật. O (1 lạy)

11. Nam-mô Hải Đức Quang Minh Phật. O (1 lạy)

12. Nam-mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật. O (1 lạy)

13. Nam-mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật. O (1 lạy)

14. Nam-mô Đại Bi Quang Phật. O (1 lạy)

15. Nam-mô Từ Lực Vương Phật. O (1 lạy)

16. Nam-mô Từ Tạng Phật. O (1 lạy)

17. Nam-mô Chiên-Đàn-Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật. O (1 lạy)

18. Nam-mô Hiền Thiện Thủ Phật. O (1 lạy)

19. Nam-mô Thiện Ý Phật. O (1 lạy)

20. Nam-mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật. O (1 lạy)

21. Nam-mô Kim Hoa Quang Phật. O (1 lạy)

22. Nam-mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật. O (1 lạy)

23. Nam-mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật. O (1 lạy)

24. Nam-mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật. O (1 lạy)

25. Nam-mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật. O (1 lạy)

26. Nam-mô Bất Động Trí Quang Phật. O (1 lạy)

27. Nam-mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật. O (1 lạy)

28. Nam-mô Tài Quang Minh Phật. O (1 lạy)

29. Nam-mô Trí Huệ Thắng Phật. O (1 lạy)

30. Nam-mô Di-Lặc Tiên Quang Phật. O (1 lạy)    

31. Nam-mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật. O (1 lạy)

32. Nam-mô Thế Tịnh Quang Phật. O (1 lạy)

33. Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. O (1 lạy)

34. Nam-mô Nhật Nguyệt Quang Phật. O (1 lạy)

35. Nam-mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật. O (1 lạy)

36. Nam-mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật. O (1 lạy)

37. Nam-mô Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương Phật. O (1 lạy)

38. Nam-mô Diệu Âm Thắng Phật. O (1 lạy)

39. Nam-mô Thường Quang Tràng Phật. O (1 lạy)

40. Nam-mô Quang Thế Đăng Phật. O (1 lạy)

41. Nam-mô Huệ Oai Đăng Vương Phật. O (1 lạy)

42. Nam-mô Pháp Thắng Vương Phật. O (1 lạy)

43. Nam-mô Tu-Di Quang Phật. O (1 lạy)

44. Nam-mô Ta-Ma-Na Hoa Quang Phật. O (1 lạy)

45. Nam-mô Ưu-Đàm-Bát-La Hoa Thù Thắng Vương Phật. O (1 lạy)

46. Nam-mô Đại Huệ Lực Vương Phật. O (1 lạy)

47. Nam-mô A-Súc-Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật. O (1 lạy)

48. Nam-mô Vô Lượng Âm Thinh Vương Phật. O (1 lạy)

49. Nam-mô Tài Quang Phật. O (1 lạy)

50. Nam-mô Kim Hải Quang Phật. O (1 lạy)

51. Nam-mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật. O (1 lạy)

52. Nam-mô Đại Thông Quang Phật. O (1 lạy)

53. Nam-mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật. O (1 lạy)

54. Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (1 lạy)

55. Nam-mô Kim Cang Bất Hoại Phật. O (1 lạy)

56. Nam-mô Bảo Quang Phật. O (1 lạy)

57. Nam-mô Long Tôn Vương Phật. O (1 lạy)

58. Nam-mô Tinh Tấn Quân Phật. O (1 lạy)

59. Nam-mô Bảo Hỏa Phật. O (1 lạy)

60. Nam-mô Tinh Tấn Hỷ Phật. O (1 lạy)

61. Nam-mô Bảo Nguyệt Quang Phật. O (1 lạy)

62. Nam-mô Hiện Vô Ngu Phật. O (1 lạy)

63. Nam-mô Bảo Nguyệt Phật. O (1 lạy)

64. Nam-mô Vô Cấu Phật. O (1 lạy)

65. Nam-mô Ly Cấu Phật. O (1 lạy)

66. Nam-mô Dõng Thí Phật. O (1 lạy)

67. Nam-mô Thanh Tịnh Phật. O (1 lạy)

68. Nam-mô Thanh Tịnh Thí Phật. O (1 lạy)

69. Nam-mô Ta-Lưu-Na Phật. O (1 lạy)

70. Nam-mô Thủy Thiên Phật. O (1 lạy)

71. Nam-mô Kiên Đức Phật. O (1 lạy)

72. Nam-mô Chiên-Đàn Công Đức Phật. O (1 lạy)

73. Nam-mô Vô Lượng Cúc Quang Phật. O (1 lạy)

74. Nam-mô Quang Đức Phật. O (1 lạy)

75. Nam-mô Vô Ưu Đức Phật. O (1 lạy)

76. Nam-mô Na-La-Diên Phật. O (1 lạy)

77. Nam-mô Công Đức Hoa Phật. O (1 lạy)

78. Nam-mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật. O (1 lạy)

79. Nam-mô Tài Công Đức Phật. O (1 lạy)

80. Nam-mô Đức Niệm Phật. O (1 lạy)

81. Nam-mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật. O (1 lạy)

82. Nam-mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật. O (1 lạy)

83. Nam-mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật. O (1 lạy)

84. Nam-mô Đấu Chiến Thắng Phật. O (1 lạy)

85. Nam-mô Thiện Du Bộ Phật. O (1 lạy)

86. Nam-mô Châu Pháp Trang Nghiêm Công Đức Phật. O (1 lạy)

87. Nam-mô Bảo Hoa Du Bộ Phật. O (1 lạy)

88. Nam-mô Liên Hoa Thiện Trụ Ta-La Thọ Vương Phật. O (1 lạy)

89. Nam-mô Pháp Giới Tạng Thân A-Di-Đà Phật. O (1 lạy)

 

Xin chư Phật mười phương thế giới

Tại thế gian thương đoái đến con

Đời này, đời trước tội dồn

Tử sanh vô thỉ nghiệp tồn đến nay

Tội con tạo hoặc bày kẻ khác

Tội thấy người làm ác mừng vui

Của chùa, của sãi khắp nơi

Tự lấy, xúi lấy, tươi cười mừng theo

Tội vô gián năm điều tự tạo

Thấy mừng theo hoặc bảo người làm

Mười điều bất thiện tự con

Xúi người can phạm, thấy làm mừng theo

Bày hoặc giấu bao nhiêu tội ấy

Đáng đọa vào ngạ quỷ, súc sanh

Địa ngục, ác thú phạt hành

Biên địa, ác kiến hoặc thành tiện nhơn…

Các tội ấy nay con sám hối O (1 lạy)

Phật chứng tri thương đoái đến con

Thành tâm quỳ trước Thế Tôn

Sự tình mọi nỗi nguồn cơn giãi bày,

Hoặc đời trước, đời này, đời khác

Con giữ gìn giới pháp tịnh thanh

Hạnh tu bố thí thường hành

Hoặc cơm một vắt nhịn dành muông chim,

Hoặc tịnh hạnh căn hiền sẵn có

Sẵn căn hiền hộ độ chúng sanh

Bồ-đề gieo giống căn lành

Căn lành sẵn có phát sanh trí mầu,

Căn lành ấy gồn thâu vô lượng

Thảy đều xin hồi hướng Bồ-đề

Con xin phát nguyện trở về

Theo ba đời Phật không hề sai ngoa.

Những tội lỗi nay đà sám hối

Các phước lành nhuần gội bấy nhiêu

Thành tâm kỉnh Phật công nhiều

Nguyện thành Bồ-tát cao siêu độ đời.

Phật quá khứ, vị lai, hiện tại

Trong chúng sanh tối đại thắng vương

Biển khơi công đức khôn lường

Nay con quy mạng cúng dường kính cung. O (1 lạy)

Khắp tất cả mười phương thế giới

Trong ba đời các vị Pháp vương

Miệng, lòng trong sạch cúng dâng

Chí tâm đảnh lễ mười phương vẹn tuyền.

Oai thần lực Phổ Hiền hạnh nguyện

Trước Như Lai phổ hiện chơn thân

Mỗi thân thể hiện vô ngần

Mỗi thân đảnh lễ nhiều thân Phật Đà. O (1 lạy)

Trong mảnh bụi Hằng sa số Phật

Khắp nơi nơi Bồ-tát hội vào

Bụi trần pháp giới biết bao

Cùng tin có Phật dồi dào nơi nơi.

Biển âm thinh khắp trời xưng tụng

Lời diệu huyền cất giọng đề cao

Trải bao thế kiếp mai sau

Tán dương công đức dạt dào biển khơi.

Tràng hoa đẹp xinh tươi bát ngát

Cùng lọng, tàn, kỹ nhạc, trầm hương

Vật mầu, thức quý trang hoàng

Con xin cúng Phật mười phương ba đời. O (1 lạy)

Y tối thắng, hương trầm tối thắng

Đèn đuốc cùng hương phấn, hương xông

Của nhiều như núi chất chồng

Con xin cúng Phật với lòng kính tin.

Lòng con mở rộng thinh thăm thẳm

Phật ba đời khăng khắng niềm tin

Nương theo hạnh nguyện Phổ Hiền

Con xin cúng Phật với lòng kính tin. O (1 lạy)

Các nghiệp ác tạo thành từ trước

Tham, sân, si đã trót gieo nhân

Từ lời, từ ý, từ thân

Nay con sám hối một lần trọn xong. O (1 lạy)

Bậc nhị thừa học cùng hết học

Chúng sanh gồm các bậc mười phương

Như Lai, Bồ-tát các hàng

Bao nhiêu công đức con toàn mừng vui. O (1 lạy)

Đèn chiếu thế mười phương Phật bảo

Lúc tối sơ thành đạo Bồ-đề

Nay con thành kính thỉnh về

Chuyển vô thượng diệu Bồ-đề pháp luân.  O (1 lạy)

Chư Phật muốn Niết-bàn nhập diệt

Con chí thành, chí thiết cầu van

Cúi mong Phật ở trần hoàn

Làm cho lợi lạc các hàng chúng sanh. O (1 lạy)

Lễ tán cúng phước dành thỉnh Phật

Tại thế gian chuyển pháp độ sanh

Vui theo sám hối căn lành

Xin hồi hướng đến chúng sanh đạo tràng. O (1 lạy)

Nguyện công đức muôn vàn thắng lợi

Hồi hướng về pháp giới cao xa

Tán dương Phật, Pháp, Tăng-già

Ấn tam-muội được dung hòa tục chơn.

Biển công đức mênh mông vô lượng

Con xin đem hồi hướng tận cùng

Cho người tội miệng, thân, lòng

Khinh chê Chánh pháp, trong vòng lầm sai.

Các nghiệp chướng tạo gây thế ấy

Nguyện diệt tiêu một mảy chẳng còn,

Trí minh niệm khắp đầy tròn

Độ sanh bất thối, sắt son một lòng.

Dầu cùng tận hư không thế giới

Tận chúng sanh tội lỗi não phiền

Phước con hồi hướng khắp miền

Cũng như bốn pháp vô biên, vô cùng. O (1 lạy)

Nam-mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. O (3 lần)

 

6. HỒNG DANH TÁN

Chúng con hoan hỷ

Tín thọ phụng hành

Tám mươi chín Phật

Bửu sám hồng danh

Thích-ca Văn Phật

Mười hiệu đành rành

Nương nhờ lực Phật

Sám hối tội mình

Trừ tiêu tam nghiệp

Chứng đắc vô sanh

Thâm nhập Niết-bàn

Thành Vô thượng đạo.

Nam-mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. O (3 lần)

 

7. HỒI HƯỚNG

Phẩm kinh con mới đọc rồi

Nguyện đem phước đức vun bồi chúng sanh

Người người thức tỉnh tu hành

Bến mê phút chốc biến thành ao sen,

Lý kinh sáng suốt như đèn

Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền,

Nguyện con cùng pháp có duyên

Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu

Ngày ngày tinh tấn công phu

Pháp đăng chẳng để mờ lu lạnh lùng,

Cúi xin đức Phật chứng lòng

Con nguyền quyết chí gắng công tu trì. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 



 


V. NGHI THỨC CẦU AN

(TRONG KHI TAI NẠN, RỦI RO, ĐAU ỐM)

 

1. DÂNG HƯƠNG

Giới hương, Định hương, dữ Huệ hương

Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương

Quang minh vân đài biến pháp giới

Cúng dường Tam Bảo khắp mười phương. O

 

2. LỄ PHẬT

Kính lạy Phật từ bi cứu thế

Đem đạo lành phổ tế chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí huệ quang minh soi đường. O

 

3. LỄ PHÁP

Kính lạy Pháp là phương giải thoát

Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa

Pháp tu chứng đắc kịp giờ

Độ người qua đến bến bờ bên kia. O

 

4. LỄ TĂNG

Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật

Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần

Tự mình giác ngộ lý chân

Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O

 

5. KỈNH NGUYỆN

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O

Bạch đức Thế Tôn !

Các con xin trì tụng phẩm kinh này,

Để cầu an cho… (Ông, bà… họ… tên… pháp danh… tuổi…)

Và tất cả chúng sanh trong mười phương

Kẻ âm được siêu, người dương thanh thới

Cùng nghiệp qua, nạn khỏi, tật bệnh tai ách tiêu trừ

Thiện căn tăng trưởng, phước huệ trang nghiêm

Sở nguyện tùy tâm, thành Vô thượng đạo

Xin ơn trên chư Phật chứng minh. O

 

6. KHAI KINH KỆ

Vòi vọi không trên pháp thẳm sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe đặng chuyên trì niệm

Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu. O

 

7. KINH CẦU AN

Các con thành kính nguyện lên

Cầu xin Tam Bảo ân trên chứng lòng

Từ bi nhỏ xuống phước hồng

Độ người tai nạn thoát vòng nghiệp vương,

Cùng người tật bệnh đau thương

Thảy đều hưởng thụ miên trường vĩnh an,

Những người chịu lắm tội oan

Lần tiêu túc trái bình an trở về,

Với người nghiệp chướng đê mê

Loạn tâm vọng tưởng tư bề đảo điên

Chóng tiêu dứt mối oan khiên

An tâm, định tánh mạnh liền như xưa,

Những người bệnh hoạn dây dưa

Nhờ ân Phật lực sớm trưa mạnh lành,

Khắp trong tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển đắc thành bình an,

Người người tháo cổi dây oan

Tương thân, tương ái, kết đoàn giao liên

Sùng tu ngưỡng mộ Phật Tiên

Hướng về Tam Bảo huệ liền mở khai

Minh tâm kiến tánh Như Lai

Thoát vòng đau khổ ra ngoài trái oan,

Cầu xin Tam Bảo phước ban

Chứng lòng đệ tử cầu an đắc thành.

Nam-mô Cầu An Lạc Địa Bồ-tát. O (3 lần)

 

8. KINH CẦU NGUYỆN

Cầu Tam Bảo ơn trên tế độ

Cứu nhơn sanh tiêu khổ, diệt tai

Rộng truyền Chánh pháp Như Lai

Tỉnh người mê mộng đọa đày trần gian,

Đặng ra khỏi sáu đàng khổ bức

Liền bước lên chín bậc Liên đài,

Hộ người đạo đức tâm khai

Cúng dường, bố thí kết rày thiện duyên,

Nhờ đức Phật thiêng liêng huệ cố

Độ Cửu huyền Thất tổ siêu thăng,

Đương sanh lộc vị cao sang

Tai qua, nạn khỏi, phước tăng thọ trường,

Gia quyến đặng an khương vĩnh hạnh

Trồng cội lành đạo Thánh cần chuyên,

Thảy nương Bát-nhã từ thuyền

Giác đăng bỉ ngạn về miền Tây phương. O

 

9. KINH PHỔ NGUYỆN

Nay đệ tử lòng thành phát nguyện

Nhờ ơn trên Phật hiển oai linh

Độ cho tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển thái bình an vui

Người người được thấm mùi đạo lý

Giữ gìn thân, tâm, trí trọn lành

Ăn chay, niệm Phật tu hành

Cải tà quy chánh, hiểu rành lý chơn

Một lòng gắng keo sơn trau sửa

Dứt sân si, tánh lửa, lòng phàm

Xa lìa tội ác gian tham

Kết duyên Tam Bảo quyết làm nghĩa nhân.

Nhờ lượng cả hồng ân Tam Bảo

Chứng lòng thành hiếu đạo các con

Cầu xin cha mẹ sống còn

Tăng long tuổi thọ hưởng tròn phước duyên,

Và cầu nguyện Cửu huyền Thất tổ

Sớm vãng sanh Tịnh độ Tây phương

Hưởng an cõi thọ miên trường

Thoát vòng sanh tử trần vương khổ sầu.

Con thành kính đê đầu lễ bái

Phật từ bi, bác ái độ tha

Âm siêu, dương thới chóng qua

Cầu xin Tam Bảo chứng mà lòng con. O

 

10. KINH CẦU PHƯỚC, CẦU LỘC

Cầu Tam Bảo ban ân nhỏ phước

Cho các con hưởng được duyên lành

Làm ra mọi sự đắc thành

Gặp nhiều may mắn sẵn dành ban cho,

Con cháu biết giữ lo gia nghiệp

Lo làm ăn bặt thiệp với đời

Một lòng hiếu thảo không dời

Cũng nhờ phước lộc Phật Trời rưới ban,

Trong bửu quyến bình an vạn sự

Biết nghiêm trì gìn giữ giới răn

Nương về theo Phật, Pháp, Tăng

Là phương diệu dược diệt ngăn lòng tà,

Cả lớn nhỏ trên hòa dưới thuận

Vâng theo lời giáo huấn mẹ cha

Kính tôn hiếu thảo ông bà

Giữ tròn bổn phận tại gia tu hành,

Bền tâm trí làm lành lánh dữ

Nguyện ơn trên Phật ngự chứng minh

Cầu cho tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển thái bình yên vui

Người người được thấm mùi vị đạo

Gằng tu hành tích tạo phước duyên,

Cầu trên Phật Tổ chứng miên

Ban ân nhỏ phước xuống liền các con.

Lời cầu khẩn mãi còn ghi nhớ

Nhờ chư thiên gia trợ hộ trì

Đồng tâm phát nguyện hôm ni

Mong trên Tam Bảo chứng tri lòng thành. O

 

11. KINH CẦU THỌ

Kính lạy Phật, Pháp, Tăng tam bảo

Chứng lòng thành hiếu thảo các con

Cầu xin nội ngoại sống còn

Bá niên tuổi thọ vẹn tròn phước duyên,

Cùng cha mẹ hiện tiền sức khỏe

Đặng bình an vui vẻ muôn phần

Đường chơn nẻo đạo bước gần

Trau dồi hạnh đức chuyên cần tu tâm,

Cầu tất cả tình thâm quyến thuộc

Nội ngoại đồng hưởng được bình yên,

Bà con lối xóm láng giềng

Tai qua nạn khỏi hiện tiền sống chung

Thêm phước đức tăng sùng đạo hạnh

Vẫn bình an khỏe mạnh trọn đời

Thân tâm nhàn lạc thảnh thơi

Thoát ngoài sự thế đầy vơi tội tình…

Cầu Phật lực quang minh phóng chiếu

Độ chúng sanh thấu hiểu lý chân

Nương theo chánh đạo tu lần

Hầu mong thoát khỏi những phần tử sanh.

Nay đệ tử lòng thành khấn nguyện

Nhờ ơn trên Phật hiển oai linh

Độ cho tất cả chúng sanh

Nương về chánh đạo sửa mình tu tâm. O

 

12. KỆ THÁI BÌNH

Gieo mình trước tòa liên đài

Chí thành đảo cáo bi ai nguyện cầu

Lòng vì khắp hết năm châu

Thay cho thiên hạ hoàn cầu nhân dân

Nguyện mười phương Phật ai lân

Chín tầng tạo hóa Thánh Thần oai linh

Đoái thương ngũ trược chúng sanh

Cõi trần kiếp sát đao binh tai nàn,

Cùng người ngỗ nghịch, bạo tàn

Trái ngang phép nhiệm gây đàng chiến tranh

Mưu sâu, chước độc sẵn dành

Phá tan bờ cõi cuộc thành thiên công

Giết người máu chảy thành sông

Thây phơi trắng biển, xương chồng khắp nơi

Uế oan hơi mịt đất trời

Thác đà tàn tệ, sống thời chẳng an

Đến đâu cửa nát nhà tan

Đất bằng thành thị, gò hoang lâu đài

Lẫy lừng đấu trí, đua tài

Của đời chẳng tiếc, đồng loài chẳng thương

Làm cho thiên hạ nhiễu nhương

Đón ngăn bốn biển tuyệt đường sanh nhai

Dân lành giết hại hoài hoài

Thây che mặt biển, nước phai màu hồng

Xiết bao tai nạn chập chồng

Dưới sông đã hại, trên đồng cũng âu

Họa gieo khắp hết hoàn cầu

Tiếng than như sấm, hơi sầu như mây

Oan thay cho đến cỏ cây

Thảy đều thọ hại chầy ngày thảm thương…

Thấy đời tai nạn phi thường

Phút liền động niệm cảm thương cho đời,

Lòng thành chúc tụng hôm nay

Phần hương đảo cáo nguyện mười điều ra:

MỘT là nguyện đức DI-ĐÀ    O

Cầu cho bá tánh trẻ, già khắp nơi

Tâm lành sáng suốt kịp thời

Nhà nhà lạc nghiệp, nơi nơi thái hòa.

HAI là nguyện đức THÍCH-CA    O

Trở đời ly loạn hóa ra thái bình

Mở mang vận thái văn minh

Vật, người thơ thới, dân tình trung lương.

BA là nguyện CHUẨN ĐỀ VƯƠNG    O

Thần thông dẹp hết bốn phương chiến trường

Độ người ngỗ nghịch bạo cường

Bỏ tà về chánh một đường thiện tâm.

BỐN là nguyện đức QUÁN ÂM    O

Độ người oán trọng thù thâm thuận hòa

Độ người tai nạn xảy qua

Cùng người tật bệnh đều là an thuyên.

NĂM là nguyện đức PHỔ HIỀN    O

Độ người chơn chánh giữ quyền an dân

Bốn phương tương ái tương thân

Đồng tuân phép nước thảo thân kính nhường.

SÁU là nguyện ĐỊA TẠNG VƯƠNG    O

Độ người xiêu lạc bốn phương đặng về

Cùng là người thác tư bề

Hồn linh độ hết đồng về Tây phương.

BẢY là nguyện TỨ THIÊN VƯƠNG    O

Thái bình đem lại như Đường, Nghiêu xưa

Bốn mùa thuận tiết gió mưa

Nhơn phong vật thụ, trẻ già hân hoan.

TÁM là nguyện với TAM QUAN    O

Khiến người đạo tặc hung hoang về lành

Bốn phương hải yến, hà thanh

Nhà sanh con thảo, nước sanh tôi hiền.

CHÍN là nguyện đức HOÀNG THIÊN    O

Hộ cho thế giới dứt liền đao binh

Á, Âu như đệ như huynh

Tương thân tương ái, hòa bình giao liên.

MƯỜI là nguyện các THÁNH HIỀN    O

Cầm cân tội phước phân minh chỉ đàng

Tiêu trừ tất cả tai nàn

Dứt cơn khói lửa, hộ an dân lành.

Mười điều phát nguyện viên thành

Cầu cho bá tánh tu hành thiện duyên,

Tâm thành đảo cáo chư Thiên

Cầu xin giáng phước xuống miền Việt Nam

Tiêu trừ tất cả tánh phàm

Quan dân mau bỏ xan tham, cải tà

Bốn mùa mưa thuận gió hòa

Dân an quốc thới, trẻ già khương ninh. O

 

13. DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH – PHẨM PHỔ MÔN

( DIỄN KỆ )

 

Có Bồ-tát là Vô Tận Ý

Từ chỗ ngồi đứng dậy khoan thai

Kính thành trịch áo bày vai

Hướng về đức Phật chắp tay bạch rằng:

“ Bạch đức Phật! Quán Âm Bồ-tát

Nhơn duyên gì tên đặt Quán Âm?”

Phật rằng: “Này gã thiện nam

Nếu như muôn ức, trăm ngàn chúng sanh

Bị khổ não điêu linh tai ách

Nghe Quán Âm Bồ-tát oai linh

Một lòng khẩn thiết xưng danh

Thời Bồ-tát quán âm thanh cứu nàn.

Hoặc có kẻ thân lâm hỏa nạn

Niệm Quán Âm lửa chẳng đốt thiêu,

Oai thần Bồ-tát cao siêu

Chúng sanh xưng niệm thoát điều nguy nan.

Hoặc có kẻ thân lâm thủy nạn

Niệm Quán Âm chỗ cạn gặp liền,

Oai thần Bồ-tát diệu huyền

Chúng sanh xưng niệm thoát miền nguy nan.

Hoặc sanh chúng trăm ngàn muôn ức

Cầu bạc, vàng, bảo vật, trân châu

Xa cừ, mã não, san hô

Lưu ly, hổ phách, lộ đồ gian nguy

Vào biển cả gặp khi gió bạt

Thuyền tấp bờ La-sát nguy nan

Một người xưng niệm Quán Âm

Mọi người nương cậy oai thần cứu an.

Hoặc có kẻ thân tâm đao nạn

Niệm Quán Âm gãy đoạn gươm đao,

Oai thần Bồ-tát nhiệm mầu

Chúng sanh xưng niệm nạn nào cũng qua.

Hoặc có quỷ Dạ-xoa, La-sát

Khắp tam thiên toan bắt chúng nhân,

Nghe xưng danh hiệu Quán Thế Âm

Mắt không dám ngó, huống tầm hại ai.

Hoặc kẻ tội, hoặc người vô tội

Bị gông cùm ràng trói tấm thân

Xưng danh Bồ-tát Quán Âm

Gông cùm rời rã, tấm thân nhẹ nhàng.

Hoặc thương khách trên đàng hiểm trở

Dắt gia nhân chuyên chở báu trân

Đầy đàng oán tặc, ác nhân

Một người trong bọn bình tâm xướng rằng:

“Các nam tử xin đừng hốt hoảng

Phải một lòng niệm tưởng Quán Âm

Ngài ban vô úy diệu thâm

Chúng ta xưng niệm nhất tâm thoát nàn.”

“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát!” O

Các thương nhân được đồng phát tiếng xưng

Nhờ xưng danh hiệu ân cần

Đoàn thương nhân được thoát phần nguy nan.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thành to tát dường kia,

Nếu người dâm dục nhiều bề

Niệm danh Bồ-tát dứt lìa dâm tâm.

Nếu có kẻ nhiều sân, lắm hận

Niệm Quán Âm hận tận, sân lìa.

Nếu người si chướng nhiều bề

Niệm danh Bồ-tát dứt lìa si tâm.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thành to tát dường kia,

Năng làm lợi ích nhiều bề

Chúng sanh tâm niệm chớ hề lãng xao.

Nếu phụ nữ muốn cầu con cái

Năng cúng dường lễ bái Quán Âm

Cầu nam thì đặng sanh nam

Cầu nữ sanh nữ chí tâm đắc thành,

Cầu nam được trai lành đức trí

Cầu nữ sanh gái quý đẹp xinh

Trước trồng cội đức nhơn lành

Ai ai nhìn thấy kính thành ái thâm.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thần to tát dường kia,

Cúng dường lễ bái chi chi

Chẳng bao mấy phước, nên trì niệm danh.

Ví ai tưởng muôn nghìn Bồ-tát

Niệm nhiều tên như cát sông Hằng

Sáu mươi hai ức gia tăng

Sắm sanh tứ sự cúng dâng trọn đời,

Vô Tận Ý, vậy ngươi suy nghĩ

Công đức người dường ấy nhiều chăng?

Ngài Vô Tận Ý thưa rằng:

“Thế Tôn! Phước ấy vô ngần xiết chi.”

Phật lại nói: “Bằng khi có kẻ

Niệm Quán Âm cho chí một thời,

Cúng dường lễ bái đức Ngài

Phước so người ấy kẻ này như nhau.

Ngàn muôn ức kiếp sau chẳng dứt

Niệm Quán Âm phước đức vô ngần…”

Ngài Vô Tận Ý  bạch rằng:

“Thế Tôn! Bồ-tát Quán Âm sao là

Dạo khắp cõi Ta-bà thế giới

Vì chúng sanh giảng nói pháp lành

Sức mầu phương tiện độ sanh

Đâu là duyên cớ, cúi xin giải bày?”

Phật mới bảo: “Hỡi này nam tử,

Có chúng sanh quốc độ xa gần

Muốn cầu thân Phật độ dân

Quán Âm liền hiện Phật thân hộ trì,

Cõi muốn được Bích-chi hóa độ

Hiện Bích-chi vì đó giảng kinh,

Muốn Thinh văn đến độ sanh

Hiện Thinh văn đến pháp lành tuyên dương,

Cõi muốn được Phạm vương hóa độ

Hiện Phạm vương vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Đế Thích độ sanh

Hiện thân Đế Thích pháp lành giảng phân,

Muốn Tự Tại Thiên thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn Đại Tự Tại thân hình

Hiện Đại Tự Tại thuyết minh độ trần,

Muốn Thiên Đại tướng Quân hóa độ

Hiện Tướng Quân vì đó giảng kinh,

Muốn Tỳ-Sa đến độ sanh

Hiện Tỳ-Sa đến pháp lành giảng phân,

Muốn Tiểu Vương dùng thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Trưởng giả độ sanh

Hiện thân Trưởng giả thuyết trình lý chân,

Muốn Cư sĩ dùng thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng phân,

Cõi nào muốn bậc Tể quan

Hiện Tể quan đến luận bàn cao xa,

Cõi muốn được Bà-la-môn độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Tứ chúng độ sanh

Hiện thân Tứ chúng thuyết minh luận bàn,

Muốn Phụ nữ của hàng Trưởng giả

Bà-la-môn, Cư sĩ, Tể quan

Tức thì hiện Phụ nữ thân

Tùy cơ nói pháp độ dân muôn ngàn,

Cõi muốn được Đồng nam hóa độ

Hiện Đồng nam vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Đồng nữ độ sanh

Hiện thân Đồng nữ pháp lành giảng ra,

Muốn Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát

Ca-lầu-la cùng các Tu-la

Khẩn-na-la, Ma-hầu-la

Muốn cầu tất cả Nhân và Phi nhân

Hiện thân đó ân cần nói pháp

Phương tiện này độ khắp thế gian,

Muốn cầu thần Chấp Kim Cang

Hiện thân thần Chấp Kim Cang độ trần.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Thành tựu phần công đức oai linh

Thần thông hiện các thân hình

Dạo cùng khắp cõi độ sanh thoát nàn.

Các ngươi phải cúng dường chăm chỉ

Chỗ nguy nan vô úy ban ra

Cho nên trong cõi Ta-bà

Gọi vô úy thí đó là Quán Âm.”

Vô Tận Ý thưa rằng: “Bạch Phật

Con cúng dường Bồ-tát Quán Âm”

Cổi xâu anh lạc bảo trân

Báu mầu đáng giá nghìn, trăm lượng vàng

Dâng Bồ-tát thưa rằng: “Nhơn giả

Nhận của này pháp thí bảo trân.”

Bấy giờ Bồ-tát Quán Âm

Không ưng thọ lãnh bảo trân cúng dường.

Vô Tận Ý thưa cùng Bồ-tát:

“Xin từ bi thọ nạp bảo trân”

Bấy giờ Phật bảo Quán Âm:

“Phải thương tứ chúng cùng hàng Thiên, Long

Vô Tận Ý trong vòng Bồ-tát

A-tu-la, Càn-thát, Dạ-xoa

Ca-lầu-la, Khẩn-na-la

Ma-hầu-la với Nhân và Phi nhân

Mà thọ lãnh bảo trân anh lạc.”

Tức thời ngài Bồ-tát Quán Âm

Thương trong tứ chúng các hàng

Thiên, Long, Nhân với các đoàn Phi nhân

Nhận anh lạc hai phần phân tách

Kính dâng lên hai đức Phật Đà

Một phần dâng Phật Thích-ca O

Một phần phụng tháp Phật Đa Bảo gần.

“Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát

Có sức thần to tát thế kia

Ta-bà tự tại đi về…”

Ngài Vô Tận Ý kệ thi hỏi rằng:

 

“Đức Thế Tôn tường tốt

Con xin hỏi lại rằng:

Nhơn duyên gì Bồ-tát

Tên gọi Quán Thế Âm?”

 

Phật hoàn toàn tướng quý

Kệ đáp Vô Tận Ý:

“Người nghe lực quán âm

Khắp nơi nơi hiện thị.

 

Hầu nhiều ngàn ức Phật

Nhiều kiếp khó lường biên

Quán Thế Âm Bồ-tát O

Phát rộng thanh tịnh nguyện.

 

Ta vì người lược thuyết

Nghe thấy niệm Quán Âm

Các khổ não tiêu diệt

Nếu một niệm thành tâm.

 

Dầu ai có ác tâm

Xô té hầm lửa độc

Nhờ lực niệm Quán Âm

Hầm lửa thành ao nước.

 

Hoặc ai chìm biển cả

Mắc nạn quỷ, rồng, cá

Nhờ lực niệm Quán Âm

Sóng gió không gây họa.

 

Hoặc có kẻ ác tâm

Từ Tu-di xô ngã

Nhờ lực niệm Quán Âm

Như mặt trời không hạ.

 

Hoặc có kẻ đuổi phăng

Từ Kim Cang té xuống

Nhờ lực niệm Quán Âm

Một mảy lông chẳng tổn.

 

Hoặc giặc oán vây gần

Đều cầm gươm muốn hại

Nhờ lực niệm Quán Âm

Lòng lành kia bỗng khởi.

 

Hoặc tội vua phạm nhằm

Sắp thọ hình tuyệt mạng

Nhờ lực niệm Quán Âm

Đao liền gãy từng đoạn.

 

Hoặc mắc cảnh giam cầm

Tay chân bị còng trói

Nhờ lực niệm Quán Âm

Tự nhiên đặng thoát khỏi.

 

Hoặc bị đầu độc ngầm

Ai mưu hại mình khổ

Nhờ lực niệm Quán Âm

Mưu hại hoàn về đó.

 

Hoặc gặp La sát gần

Rồng độc cùng quỷ quái

Nhờ lực niệm Quán Âm

Thảy đều không dám hại.

 

Bị thú dữ vây quần

Nhăn nanh xòe vuốt đón

Nhờ lực niệm Quán Âm

Vôi tìm đường chạy trốn.

 

Rắn độc và bò cạp

Hà hơi độc đốt khắp

Nhờ lực niêm Quán Âm

Nghe tiếng liền ẩn nấp.

 

Mây giăng sấm sét nháng

Mưa đá tuôn hỗn loạn

Nhờ lực niệm Quán Âm

Tức thời đều tiêu tán.

 

Chúng sanh vướng tai nàn

Thân khổ bức gian nan

Quán Âm sức trí diệu

Năng cứu khổ thế gian.

 

Thần thông lực phi thường

Quán Âm nhiều phương tiện

Các quốc độ mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

 

Các loài trong đường dữ

Nhờ diệu lực Quán Âm

Tam đồ cùng tứ khổ

Khiến thoát khỏi lần lần.

 

Chơn quán, thanh tịnh quán

Trí huệ quán rộng lớn

Bi quán, Từ quán chung

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.

 

Thể sáng suốt không dơ

Mặt trời tuệ phá mờ

Năng trừ tai gió, lửa

Soi sáng khắp trần nhơ.

 

Thể Bi như sấm nổ

Lòng Từ tợ mây giăng

Rưới mưa pháp cam lộ

Diệt lửa phiền lao trần.

 

Kiện thưa đến cửa quan,

Trong trận quân kinh hoảng

Nhờ lực niệm Quán Âm

Kẻ oán đều lui tán.

 

Tiếng diệu, tiếng quán thế

Tiếng phạm, tiếng hải triều

Tiếng thế gian khó tỷ

Nên phải niệm thường nhiều.

 

Niệm niệm chớ nghi nan

Quán Âm là tịnh Thánh

Hay làm chỗ dựa nương

Cho kẻ trong khổ cảnh.

 

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trong chúng sanh

Rộng không lường biển phước

Nên kính lễ chí thành”. O

 

Có Bồ-tát hiệu danh Trì Địa

Từ chỗ ngồi đứng dậy bạch rằng:

“Chúng sanh nghe lực Quán Âm

Thần thông thị hiện phước tăng, nghiệp mòn.”

Khi Phật nói Phổ Môn diệu phẩm

Chúng hội đông tám vạn bốn ngàn

Nghe rồi đều thảy phát tâm

Bồ-đề Vô thượng thậm thâm diệu huyền. O

 

14. PHỔ MÔN TÁN

Phổ môn thị hiện

Cứu khổ tầm thinh

Từ bi thuyết pháp

Độ khắp mê tình

Theo lời khẩn nguyện

Cảm ứng tùy hình

Tám nàn tiêu diệt

Bốn biển an bình. O

 

15. THẬP NHỊ NGUYỆN 

1. Nam-mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện. O

2. Nam-mô nhất niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. O

3. Nam-mô trụ Ta-bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. O

4. Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. O

5. Nam-mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện. O

6. Nam-mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện. O

7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. O

8. Nam-mô vọng nam nham, cầu lễ bái, Quán Âm Như Lai già tỏa giải thoát nguyện. O

9. Nam-mô tạo pháp thuyền, du khổ hải, Quán âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện. O

10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện. O

11. Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện. O

12. Nam-mô đoan nghiêm thân, vô tỷ toại, Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện. O

 

16. QUÁN ÂM TÁN

Viên Thông hiệu quý

Đại sĩ Quán Âm

Mười hai nguyện lớn

Quảng đại cao thâm

Vào nơi khổ hải

Độ khỏi mê tân

Tầm thinh cứu khổ

Chốn chốn hiện thân. O

Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. O (3 lần)

 

17. BÁT-NHÃ TÂM KINH

Khi hành Bát-nhã Ba-la

Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng

Thấy ra năm uẩn đều không

Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.

Này Xá-Lợi Tử xét ra

Không là sắc đó, sắc là không đây

Sắc cùng không chẳng khác sai

Không cùng sắc cũng sánh tày như nhau

Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào

Cũng như sắc uẩn một màu không không.

Này Xá-Lợi Tử ghi lòng

Không không tướng ấy đều không tướng hình

Không tăng giảm, không trược thanh

Cũng không diệt, cũng không sanh: pháp đồng

Vậy nên trong cái chơn không

Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần

Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân

Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh

Từ không giới hạn mắt nhìn

Đến không ý thức, vô minh cũng đồng

Hết vô minh cũng vẫn không

Hết già, hết chết, giả không có gì

Không khổ, tập, diệt, đạo kia

Trí huệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành sở đắc bởi không

Các vị Bồ-tát nương tùng tuệ năng

Tâm không còn chút ngại ngăn

Nên không còn chút băn khoăn sợ gì

Đảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết-bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau xưa

Đắc thành Chánh giác đã nhờ huệ năng.

Trí huệ năng lực vô ngần

Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu

Trí huệ năng lực có nhiều

Thật là thần chú trừ tiêu não phiền

Trí huệ năng lực vô biên

Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.

Liền theo lời chú thuyết rằng:

Độ tha, giác ngộ khắp trần chúng sanh. O

 

18. THẬP NGUYỆN

MỘT nguyền lễ kính Như Lai

HAI nguyền xưng tán công dày Thế Tôn

BA nguyền tu phước cúng dường

BỐN nguyền sám hối nghiệp vương tội trần

NĂM nguyền tùy hỷ công huân

SÁU nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người

BẢY nguyền thỉnh Phật ở đời

TÁM nguyền học Phật tùy thời phát minh

CHÍN nguyền hằng thuận chúng sanh

MƯỜI nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi. O

 

19. PHÚNG KINH

Tụng kinh công đức tuyệt vời

Xin đem hồi hướng khắp người gần xa

Chúng sanh pháp giới Ta-bà

Mau về cõi Phật Di-Đà Tây thiên. O

 

20. NGUYỆN TIÊU

Nguyện tiêu tam chướng não phiền

Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời

Nguyện bao nghiệp tội xa rời

Nguyện hành Bồ-tát đời đời độ tha. O

 

21. NGUYỆN SANH

Nguyện về Tịnh độ nước nhà

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình

Hoa khai ngộ pháp vô sanh

Bất thối Bồ-tát bạn lành dựa nương. O

 

22. HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức lành

Hồi hướng cho tất cả

Chúng con với chúng sanh

Đều chứng thành Phật quả. O

 

23. TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật

Cầu cho chúng sanh

Hiểu rõ đạo lành

Phát lòng vô thượng. O

 

Tự quy y Pháp

Cầu cho chúng sanh

Kinh luật hiểu rành

Trí huệ như biển. O

 

Tự quy y Tăng

Cầu cho chúng sanh

Hiệp chúng đồng tình

Chẳng hề trở ngại. O

 

24. LỜI KHUYÊN NHẮC

Mỗi khi có tai nạn, bệnh hoạn ốm đau, là do tai ách quả nghiệp dồn dập nặng nề… Muốn tháo cởi oan gia nghiệp báo ấy, thì nên in kinh pháp ấn tống, xin hồi hướng ấy cho tiêu tai dứt nghiệp…

Hoặc gia đình Phật tử có cha mẹ, ông bà gì lâm chung, muốn cho các hương linh được nhẹ nhàng siêu độ, thì nên phát tâm ấn tống kinh, nhờ mỗi người được xem kinh thành tâm cầu nguyện, thì công đức phước báu ấy thật là vô lượng vô biên, hương linh chắc chắn được nhẹ nhàng siêu thoát. Chớ nên đốt lầu kho, quần áo, giấy tiền vàng bạc… đừng xài phung phí tốn kém vô ích lại còn mang tiếng mê tín dị đoan để cho tà sư ngoại giáo khinh chê Phật pháp, thì kẻ ấy lại càng đắc tội.

 



 


VI. NGHI THỨC CẦU SIÊU

(TẠI TỊNH XÁ HOẶC TẠI TƯ GIA)

 

1. DÂNG HƯƠNG

Giới hương, Định hương, dữ Huệ hương

Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương

Quang minh vân đài biến pháp giới

Cúng dường Tam Bảo khắp mười phương. O

 

2. LỄ PHẬT

Kính lạy Phật từ bi cứu thế

Đem đạo lành phổ tế chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí huệ quang minh soi đường. O

 

3. LỄ PHÁP

Kính lạy Pháp là phương giải thoát

Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa

Pháp tu chứng đắc kịp giờ

Độ người qua đến bến bờ bên kia. O

 

4. LỄ TĂNG

Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật

Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần

Tự mình giác ngộ lý chân

Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O

 

5. KỈNH NGUYỆN

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O

Bạch Đức Thế Tôn!

Các con xin trì tụng phẩm kinh này,

Để cầu  siêu cho… (Ông, bà… họ…tên… pháp danh… hưởng thọ… tuổi. Lâm chung ngày… tháng… năm…), cùng tất cả hương linh trong mười phương sớm được vãng sanh về Tây phương Tịnh độ, xin ơn trên chư Phật chứng minh. O (3 lần)

 

6. KHAI KINH KỆ

Vòi vọi không trên pháp thẳm sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe đặng chuyên trì niệm

Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu. O

 

7. KINH CẦU SIÊU

Nam-mô Phật Tổ THÍCH-CA

Tây phương Giáo chủ DI-ĐÀ chứng minh

QUAN ÂM, THẾ CHÍ oai linh

PHỔ HIỀN, ĐỊA TẠNG  tận tình chứng tri

Nhờ ân Phật lực từ bi

Chứng lòng đệ tử đồng thì nguyện ra

Cầu cho kẻ thác siêu qua

Sanh về Phật quốc ngự tòa bảo châu

Ngưỡng mong Phật pháp cao sâu

Độ người thoát khỏi khổ sầu nghiệp vương

Sanh qua cảnh Phật miên trường

Chẳng còn đau khổ sáu đường thế gian

Dứt lìa mối nợ trái oan

Hưởng thụ thanh nhàn cõi thọ vĩnh miên,

Lòng thành nguyện đến Phật Tiên

Độ rỗi CỬU HUYỀN THẤT TỔ siêu thăng

Lục thân quyến thuộc đồng bằng

Vãng sanh Tịnh độ siêu thăng Liên đài

Vào trong cửu phẩm cao ngai

Hưởng phần khoái lạc, đêm ngày thảnh thơi.

Các con cung kính đồng thời

Cầu xin Tam Bảo chứng nơi lòng thành,

Nguyện cho tất cả chúng sanh

Âm siêu, dương thới, cõi thanh dựa kề

Người người đắc giác lìa mê

Sớm gieo hạt giống Bồ-đề vào tâm. O

Nam-mô Cầu Siêu Lạc Độ Bồ-tát. O (3 lần)

 

8. GIÁC LINH TỐNG TÁNG

( ĐỂ TỤNG KHI CÓ TANG LỄ )

 

Đời người như một giấc mơ

Trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay

Tuần hoàn máy tạo chuyển xoay

Chết đi, sống ở xưa nay lẽ thường.

Hương, đăng, hoa, quả cúng dường

Nguyện cầu Tam Bảo mười phương chứng lòng. O

Hôm nay ta hãy đồng thời

Đưa người nhẹ bước về nơi Phật đường,

Cũng vì bác ái lòng thương

Cầu cho người được về nương Bồ-đề

Xa lìa biển khổ tối mê

Tam đồ, lục đạo, mà về Tây phương

Dứt lìa sanh tử vấn vương

Ở nơi Phật quốc an khương đời đời.

Vậy nên đây có đôi lời

Nhắc người bóng cũ nay thời biệt ly:

Cảnh đời lắm nỗi sầu bi

Tình ân phụ mẫu nay thì cách xa,

Cảnh đời như bóng phù hoa

Tình thâm huynh đệ phải xa hội này,

Cảnh đời nào khác chòm mây

Tình chồng nghĩa vợ hôm nay xa lìa,

Cảnh đời như bọt nước kia

Tình thương cho mấy cũng lìa với nhau,

Cảnh đời như gió thổi mau

Tình thương con cháu thế sao cũng lìa,

Cảnh đời như bể dâu kia

Tình bằng cố hữu cũng chia đôi đường,

Cảnh đời như thể sa sương

Tình thâm quyến thuộc cũng thường cách nhau,

Cảnh đời như đá mài dao

Cả hai mòn hết có nào bền lâu,

Cảnh đời như lửa đốt dầu

Cháy mau thì hết có đâu còn hoài,

Cảnh đời nghĩ luống bi ai

Khác nào hoa nở rồi mai hoa tàn,

Cảnh đời khó nỗi thở than

Khác nào một đám rừng hoang mịt mù,

Cảnh đời vì bởi chẳng tu

Nên đường sanh tử lu bu không lìa,

Cảnh đời vì bởi trau tria

Đeo theo vật khó lìa lợi danh,

Cảnh đời như biển nước xanh

Gió cuồn, sóng cuộn mé gành lao xao,

Cành đời như giấc chiêm bao

Như lằn điển chớp, khác nào tiếng vang,

Cảnh đời như đống tro tàn

Giống như dã tràng xe cát biển Đông,

Cảnh đời như thể mật ong

Thoa vào lưỡi kiếm gạt lòng trẻ em,

Cảnh đời nhìn kỹ mà xem

Khi về âm cảnh nào đem món gì,

Cảnh đời là khối hiệp ly

Nay dời, mai đổi theo thì thời gian!... O

Hồi nào ở chốn đền vàng

Bây giờ gởi xác đồng hoang một mình,

Hồi nào mắt đẹp, mày xinh

Bây giờ một đống thịt sình mà thôi,

Hồi nào đứng đứng, ngồi ngồi

Bây giờ yên lặng như chồi cây khô,

Hồi nào trang điểm khôi ngô

Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài,

Hồi nào tình bạn bắt tay

Bây giờ cắt đứt làm hai con đường,

Hồi nào mền, nệm, gối, giường

Bây giờ dứt bỏ thảm thương vô cùng,

Hồi nào xưng bá, xưng hùng

Bây giờ nhắm mắt mà chun xuống mồ,

Hồi nào lên, xuống, ra, vô

Bây giờ yên lặng như đồ bất tri,

Hồi nào ứng cử khoa thi

Bây giờ sao dứt mà đi cho đành,

Hồi nào tham lợi, tham danh

Bây giờ một đám cỏ xanh nấm mồ,

Hồi nào du lịch giang hồ

Bây giờ ở chốn đồng khô băng ngàn,

Hồi nào trau ngọc chuốt vàng

Bây giờ một đống xương tàn rũ da,

Hồi nào múa, hát, đờn, ca

Bây giờ lìa bỏ tách ra xóm làng,

Hồi nào kiệu phụng, lầu vàng

Bây giờ mặt biển sóng tràn nhấp nhô,

Hồi nào anh, chị, chú, cô

Bây giờ chẳng thấy ra vô bóng hình,

Hồi nào con, vợ của mình

Bây giờ hai ngã thình lình cách xa,

Hồi nào mẹ mẹ, cha cha

Bây giờ bóng đã khuất qua xế rồi,

Hồi nào tớ, chủ, quân, tôi

Bây giờ như bọt nước trôi giữa dòng,

Hồi nào bác, thím, em, chồng

Bây giờ cách biệt hết mong được gần,

Hồi nào yểm cựu, nghinh tân

Bây giờ chỉ thấy mộ phần thiết tha!...

Cảnh đời bách chiết, thiên ma

Huỳnh tuyền choán lộ phải qua một lần!

Ở trong cảnh thế dương trần

Dầu cho vua, chúa, quan, dân, sang, hèn

Hạng nào cũng thể bóng đèn

Hết tim thì tắt một phen mịt mù,

Dầu cho kẻ trí, người ngu

Kẻ khôn, người dại hình thù nhỏ to

Rốt rồi cũng táng một gò

Của trần để lại chẳng cho đem về,

Có gì tríu mến, tham mê

Đeo theo vật chất nghiệp nghề làm chi

Thế rồi cũng bỏ mà đi

Nghĩ ra lắm nỗi sầu bi dập dồn

Tiếng kêu ơi hỡi linh hồn!

Cảnh đời nay biển, mai cồn tỉnh chưa?

Tỉnh rồi dứt mối say sưa

Thì là có Phật rước đưa qua liền,

Do hồi đời sống sanh tiền

Gieo nhiều miếng ruộng phước điền khắp nơi

Bây giờ an hưởng vui chơi

Cũng như trong lúc đương đời có tu

Cho nên mới được mới võng dù

Không xòn trăn trói ngục tù trần lao

Dứt lìa sanh tử đớn đau

Ở nơi Phật quốc ra vào thảnh thơi

Chẳng còn nghĩ đến việc đời

Cõi trần giả tạm vốn thời đổi thay.

Nếu như muốn vậy, hôm nay

Phải lo tu trước ngày mai mà nhờ,

Biết rằng phải ngộ thiền cơ

Mau mau nhẹ gót qua bờ sông mê

Khi nào bỏ thế về quê

Thì là có Phật dựa kề một bên

Rước đem về đến cõi trên

Hưởng điều khoái lạc vững bền dài lâu

Đôi lời kính chúc mong cầu

Nhờ ơn chư Phật rước thâu hồn về

Khỏi vòng biển khổ, sông mê

Tam đồ, lục đạo; dựa kề hoa sen

Nhìn xem thấy rõ bóng đèn

Quang minh rạng chói một phen sáng lòa

Nguyện cầu với Đức Di-Đà O

Từ bi tế độ những là chúng sanh

Dầu loài vô giác, hữu tình

Thảy đều được phước về sanh nước Ngài

THÍCH-CA PHẬT TỔ NHƯ LAI O

QUAN ÂM, THẾ CHÍ cùng ngài TẠNG VƯƠNG O

Từ bi mở tấm lòng thương

Nước mưa cam lộ mười phương rưới vào

Chúng sanh tất cả trần lao

Nương theo quả giác về mau Niết-bàn. O

Nam-mô Cầu Siêu Lạc Độ Bồ-tát (3 lần)

 

9. SÁM PHÁT NGUYỆN

Một lòng mỏi mệt không nài

Cầu về Cực Lạc ngồi đài Liên hoa

Cha lành vốn thiệt Di-Đà

Soi hào quang tịnh chói lòa thân con

Thẳm sâu ơn Phật hằng còn

Con nay chánh niệm lòng son một bề

Nguyện làm nên đạo Bồ-đề

Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương,

Phật xưa lời thệ tỏ tường

Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh

Thệ rằng ai phát lòng lành

Nước ta báu vật để dành các ngươi

Thiện nam, tín nữ mỗi người

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra

Ta không rước ở nước ta

Thệ không thành Phật chắc là không sai,

Bởi vì tin tưởng Như Lai

Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng

Lời thề biển rộng mênh mông

Nhờ nương đức Phật thoát vòng trần lao

Tội mòn như đá mài dao

Phước lành thêm lớn càng cao càng dày,

Cầu cho con thác biết ngày

Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh,

Cầu con bịnh khổ khỏi mình

Lòng không tríu mến chuyện tình thế gian,

Cầu con thần thức nhẹ nhàng

In như thiền định họ Bàng thuở xưa…

Đài vàng tay Phật bưng chờ

Các ông Bồ-tát bây giờ đứng trông

Rước con thật đã nên đông

Nội trong giây phút thảy đồng về Tây,

Xem trong cõi Phật tốt thay

Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần,

Hội này thấy Phật chơn thân

Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng,

Quyết tu độ chúng phàm dân

Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài

Phật thệ chắc thiệt không sai

Cầu về Tịnh độ ai ai tin lòng.

Nguyện về Tịnh độ một nhà

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình

Hoa nở rồi biết tánh linh

Các ông Bồ-tát bạn lành với ta. O

 

10. SÁM CẦU SIÊU

Trên bảo tọa khói hương nghi ngút

Tấm lòng thành nhiệt huyết từ đây

Mây lành năm sắc phủ vây

Chở che nhân loại lắm thay oan hồn.

Vẫn biết chữ: Tử quy sanh ký

Người trần ai, ai dễ sống lâu

Nhưng vì nghĩa nặng, ơn sâu

Thương tình đồng loại với nhau một lòng.

Bất cứ là người Âu, kẻ Á

Giống da nào cũng loại sanh linh

Đạn rơi, súng nổ thình lình

Nỡ đem toàn thể tan tành thịt xương,

Đệ tử con hết lòng cầu khẩn

Xin Phật từ cứu độ vong linh

Ngưỡng nhờ lượng Thánh cao minh

Xót thương đoái tưởng phù sinh khốn nàn.

Sanh bất hạnh nhằm đời mạt pháp

Chịu trăm bề khốn khổ xiết bao

Sống thời vất vả, gian lao

Thác không toàn thể, thây giao tử thần

Bom rơi xuống tan xương, nát thịt

Đạn bay ngang phách lạc, hồn kinh

Sẵn lòng khấn vái đinh ninh

Hồn nương mây bạc linh đinh cõi ngoài.

Xin kíp đến quy y Tam Bảo

Nước dương chi rửa sạch lòng trần

Gội nhuần đức Phật thâm ân

Bao nhiêu tội chướng cũng lần đặng tiêu.

Dạ tha thiết cúi đầu bệ ngọc

Chí ân cần siêu độ vong linh

Trời cao bể rộng minh minh

Bao la vạn tượng hồn linh an nhàn

Nay hết lúc lầm than khổ sở

Kíp trở về Cực lạc Tây phang

Ta nay hưởng phước Lạc bang

Tiêu diêu cực điểm, ngày ngày thảnh thơi.

Xin nhắc nhở ai ôi nghe thấy

Ráng gìn lòng, giữ dạ đạo tâm

Đức nhuần mầu nhiệm huyền thâm

Mặc dầu sanh tử thân tâm lẽ thường.

Kiếp nhơn sanh là đường sanh tử

Nẻo luân hồi khứ khứ, lai lai

Hữu hình, hữu hoại đổi thay

Sắc không, không sắc mới hay vô thường.

Dẫu tài sắc trăm phương cũng thế

Kiếp phù sinh há dễ sống lâu

Vong hồn ơi hỡi nơi đâu

Ráng nghe kinh kệ ngõ hầu siêu thăng. O

 

11. KINH A-DI-ĐÀ

Như Lai trước ứng cơ thuyết pháp

Ta hằng nghe lời tạc như vầy:

Một khi Pháp hội đông đầy

Tại thành Xá-Vệ, cội cây Kỳ-Đà

Vườn trưởng giả hiệu là Cô Độc

Tạo giảng đường đủ các nghiêm trang

Tỳ-kheo Tăng số một ngàn

Hai trăm năm chục rỡ ràng thiền na

Điều chứng quả đại A-la-hán

Pháp thần thông đạo ngạn cao siêu

Thống tri đại chúng quy điều

Những bậc Thượng tọa, ông Kiều-Phạm-Ba

Xá-Lợi-Phất, Nan-Đà, Ca-Diếp O

Mục-Kiền-Liên với Kiếp-Tân-Na

Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa

Ca-Chiên-Diên với A-Nan, La-Hầu

Bạc-Câu-Ra, Lầu-Đà, Châu-Lợi

Tân-Đầu-Lư lại với Đà-Di

Ấy đại đệ tử thường tùy

Với Bồ-tát lớn ứng kỳ rất đông

Pháp Vương Tử Văn-Thù-Sư-Lợi O

A-Dật-Đa lại với Càn-Đà

Ông Thường Tinh Tấn Ma-Ha

Với Trời Đế Thích cùng là chư Thiên

Chúng hữu duyên Kỳ-Viên tất tập

Đồng tán dương đức Phật vô biên

Khôn lường đại hội Nhơn Thiên

Tán hoa, lễ bái, pháp viên kiền thiền…

Như Lai ứng cơ duyên thuyết pháp

Muốn mở đường Cực Lạc độ sanh

Mới bảo Xá-Lợi lời rằng:

“Từ đây thẳng đến một đường Tây phương

Khỏi Phật quốc mười muôn ức cõi

Có bửu thành nước gọi Lạc bang

Di-Đà hiện tại phóng quang O

Nay đương nói pháp độ toàn chúng sanh.

Xá-Lợi-Phất! Sao rằng Cực Lạc?

Trong nước kia những các chúng sanh

An vui các vật hiện thành

Không điều khổ não nên rằng Lạc bang.

Này Xá-Lợi, bên đường Cực Lạc

Có câu lơn bảy lớp trang nghiêm

Bảy trùng la võng huy hoàng

Bảy hàng bảo thọ như tràng hoa giăng

Cây vòi vọi tầng tầng chớn chở

Đường giăng giăng sáng rỡ báu châu

Giáp vòng trong nước đâu đâu

Đều là bốn báu sen màu mà nên.

Cảnh thế ấy an trên Cực Lạc

Xá-Lợi này, có các bảo trì

Đều là bảy báu tinh kỳ

Hiệp thành sáng rỡ, dưới thì kim sa

Tám công đức nước ra đầy dẫy

Ao bửu trì trông thấy các vàng

Bốn bên giai cấp có đàng

Trên thì lầu các ngọn vàng nghiêm trang.

Sen đua nở trong ao rực rỡ

Hoa tinh thần lớn tợ xa luân

Bốn màu: xanh, đỏ, trắng, vàng

Màu nào sắc nấy phóng quang ánh trời

Cảnh trong sạch nơi nơi thơm ngát

Xá-Lợi, kia Cực Lạc rất xinh

Bao nhiêu công đức kinh dinh

Hiệp thành một cảnh quang minh khôn lường.”

Phật lại bảo tỏ tường Xá Lơi:

“Nước Phật kia thường nổi nhạc trời

Vàng ròng là đất khắp nơi

Ngày đêm sáu khắc hoa trời rưới dâng

Chúng nước ấy thường chừng khi sáng

Y kích đem đựng Mạn-đà hoa

Trải qua phương khác Phật-đà

Mười muôn ức cõi tán hoa cúng dường

Trong giây khắc mười phương qua lại

Phép thần thông vô ngại mấy hồi

Như đây ăn bữa cơm rồi

Trải đi khắp đủ đã hồi bổn bang.

Xá-Lợi-Phất, muôn ngàn công đức O

Bên nước kia đúng bậc nghiêm trang!”

Lại rằng: “Xá-Lợi, Lạc bang

Có chim kỳ diệu trắng, vàng, đỏ, xanh

Chim Khổng tước, Ca-lăng, Bạch hạc

Anh võ cùng Cộng mạng, Tần-già

Ngày đêm sáu khắc xướng ca

Dịu dàng đủ tiếng, thuần hòa phát âm

Diễn những pháp Ngũ căn, Ngũ lực

Thất Bồ-đề, Bát chánh đạo phần

Diễn ca các pháp phân minh

Người nghe phơi phới thêm sanh căn lành

Đều niệm Phật, niệm Tăng, niệm Pháp. O

Xá-Lợi đừng gọi các chim kia

Thiệt là tội báo sanh về

Cớ sao nước ấy chẳng hề nghiệp chi?

Xá-Lợi-Phất, chẳng gì ác nghiệp

Huống chi là có thiệt hay sao?

Kìa như các thứ chim nào

Di-Đà biến hóa, tuyên rao pháp thiền

Xá-Lợi-Phất bên miền Cực Lạc. O

Có thường thường gió mát dịu dàng

Phất qua cây ngọc, lưới vàng

Tiếng khua vi diệu như ngàn nhạc âm

Nghe tiếng ấy thiện tâm phấn chấn

Đều một lòng niệm Phật, Pháp, Tăng. O

Xá-Lợi, Cực Lạc nghiêm trang

Do công đức ấy hoàn toàn mà nên.

Xá-Lợi-Phất, kìa tên Phật hiệu

Ý ngươi sao có hiểu được không?

Xá-Lợi, Phật có hào quang

Chiếu thông thế giới mười phương khôn lường,

Nên chư Phật tán dương công đức

Hiệu Di-Đà vô cực quang minh. O

Xá-Lợi, bên cõi Lạc thành

Phật kia thọ mạng trường sanh khôn lường,

Người trong nước vô phương thọ khảo

Tính không cùng thọ báo Hằng hà

Nên xưng danh gọi Di-Đà O

Tán dương Đức Phật Hằng sa thọ trường.

Này Xá-Lợi, Pháp vương Cực Lạc

Thành Phật Đà mười kiếp nhẫn nay...”

Lại bảo Xá-Lợi lời này:

“Phật kia đệ tử đông vầy Hằng sa

Bậc Thinh văn cùng A-la-hán

Tính không cùng Bồ-tát Hằng hà.

Xá-Lợi, cõi Phật Di-Đà O

Nên xong công đức thật là nghiêm trang.

Này Xá-Lợi, Lạc bang quốc độ

Chúng sanh về đạo quả chẳng lui

Thuở trong các vị cao ngôi

Nhất sanh bổ xứ số thôi quá nhiều

Dẫu tính toán bao nhiêu chẳng xiết

Nên số xưng chỉ thuyết vô biên.

Xá-Lợi, những chúng hữu duyên

Nghe đây phát nguyện về miền Lạc bang

Cớ sao đặng với trang Thượng thiện

Hiệp một phương đồng nguyện, đồng sanh?

Xá-Lợi, há chút căn lành

Nhơn duyên phước đức mà thành đạo sao.

Này Xá-Lợi, người nào nam nữ

Nghe đặng câu Lục tự Di-Đà O

Chấp trì danh hiệu niệm ra

Một ngày nhẫn đến năm, ba, bảy ngày

Chăm một lòng chẳng lìa chánh niệm

Niệm Di-Đà danh hiệu tinh chuyên O

Niệm Phật diệt tội, tiêu khiên

Đặng nhiều phước đức nhân duyên căn lành

Khi lâm mạng an thần định tánh

A-Di-Đà, chúng Thánh hiện tiền O

Lòng không điên đảo chư duyên

Đặng phần chánh tín về miền Lạc bang.

Xá-Lợi-phất! Thấy đàng phước lợi O

Ta ngỏ lời nói với chúng sanh

Người nào nghe đặng Phật danh

Hiệp nên phát nguyện vãng sanh phước dày.

Xá-Lợi-phất, Ta nay xưng tán

Đức Di-Đà vô hạn lợi sanh O

Phương Đông cũng có Phật danh

A-Sơ-Bệ Phật tán thành Tây phương

Tu-Di Tướng Phật đương khen ngợi

Đại Tu-Di Phật lại phát minh

Tu-Di Quang Phật đồng thanh

Diệu Âm Phật cũng xưng danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật tán dương.

Xá-Lợi! Thế giới Nam phương

Nhật Nguyệt Đăng Phật mở đường Lạc bang

Danh Văn Quang Phật đang khen ngợi

Đại Diệm-Kiên Phật lại phát minh

Tu-Di Quang Phật đồng thinh

Vô Lượng Tinh Tấn xưng danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật tán dương.

Xá-Lợi! Thế giới Tây phương

Vô Lượng Thọ Phật mở đường Lạc bang

Vô Lượng Tướng Phật đang khen ngợi

Vô Lượng Tràng Phật lại đồng thinh

Đại Quang với Phật Đại Minh

Tinh Quang Hữu Tướng xưng danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật tán dương.

Xá-Lợi! Thế giới Bắc phương

Có Diệm-Kiên Phật mở đường Lạc bang

Tối Thắng Âm Phật đang khen ngợi

Nan-Thơ Phật hòa lại phát minh

Nhật Sanh Phật cũng đồng thinh

Dõng Minh Phật cũng xưng danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật tán dương.

Xá-Lợi! Thế giới Hạ phương

Có Sư Tử Phật mở đường Lạc bang

Danh Văn Phật nay đang khen ngợi

Danh Quang Phật hòa lại phát minh

Đạt-Ma, Phật Pháp (Tràng) đồng thinh

Trì Pháp Phật cũng xưng danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật tán dương.

Xá-Lợi! Thế giới thượng phương

Có Phạm Âm Phật mở đường Lạc bang

Tức Vương Phật, Hương Quang, Hương Thượng

Đại Diệm-Kiên đồng xướng Di-Đà, O

Có Phật Tạp Sắc Bửu Hoa

Ta-La Thọ Phật cũng là xưng dương

Bửu Hoa Đức Phật đương khen ngợi

Nhất Thiết Nghĩa Phật lại phát minh

Tu-Di Sơn Phật đồng thinh

Mở lời dạy bảo niệm danh Di-Đà. O

Dường ấy thảy Hằng sa chư Phật

Tướng lưỡi ra bủa khắp tam thiên

Nói lời chắc thiệt bảo khuyên

Chúng sanh ngươi phải tín thành phát tâm

A-Di-Đà thậm thâm công đức O

Nên kinh này chư Phật hộ trì.

Xá-Lợi, ngươi ý xét suy

Chư Phật hộ niệm kinh này cớ sao?

Này Xá-Lợi, người nào nam nữ

Nghe kinh này tín sự phụng hành

Với nghe chư Phật kim danh

Đặng phần hộ niệm đạo thành chẳng lui.

Nên Xá-Lợi, các ngươi tín thọ

Lời ta nay nói đó phụng hành

Với lời chư Phật tán thành

Phát lòng chánh tín nguyện sanh Lạc thành.

Xá-Lợi-Phất, căn lành do đó O

Hoặc những người đã có nguyện rồi

Người đã phát nguyện đương đời

Người mới tín thọ hội này nguyện ra

Muốn về nước Di-Đà Phật ấy

Các người đều đặng vậy chẳng lui

Nhất thừa thọ ký đặng rồi

Vô thượng Chánh giác ấy ngôi hầu gần.

Do phát nguyện tinh thần xu hướng

Nên nước kia người được về rồi

Hoặc người về đã tới nơi

Người mới dời bước đương thời ngày nay…

Này Xá-Lợi! Các người nam nữ

Như có ai tin thử lời ta

Tín thành nguyện nọ phát ra

Đặng về Cực Lạc nước A-Di-Đà. O

Xá-Lợi-phất! Như ta nay ấy

Khen ngợi công đức bấy Phật-đà                

Chư Phật cũng lại khen ta

Lời xưng công đức Thích-Ca khôn lường O

Hay làm sự khó làm ít có

Cõi Ta-bà chẳng bỏ chúng sanh,

Năm trược đời dữ hoành hành

Kiếp đời quá trược, chúng sanh trược nhiều

Trước mắt thấy những điều trược uế

Trong mạng người trược kể biết bao

Các trược phiền não xen vào

Ấy là năm trược trần lao Ta-bà,

Trong nước ấy tu đà thành Phật

Vì chúng sanh thuyết giáo mỗi nơi

Bủa lòng bác ái khắp trời

Nói ra những pháp trong đời khó tin! O

Xá-Lợi-Phất, ngươi nay hiểu biết

Ta ở đời trược ác thế gian

Hay làm những việc khó làm

Đặng đạo Vô thượng mở đường độ sanh

Nói những pháp nan hành, nan tín

Dắt chúng sanh về cõi Niết-bàn

Ấy là việc khó làm nên

Viên dung một trí ở trên ba ngàn.”

Phật mới nói kinh hoàn pháp mãn

Xá-Lợi cùng Bồ-tát, Phạm thiên

Tỳ-kheo, La-hán vô biên

Đại hội tam giới Nhơn, Thiên Hằng hà

Nghe Phật nói Di-Đà công đức

Lòng vui mừng khấp khởi phụng hành

Xưng dương lễ tạ kiền thiền

Các hoàn bổn độ hóa thành hội châu. O

 

12. DI-ĐÀ KINH TÁN

Nam-mô Giáo chủ Tây phương

Năng nhơn Tịnh độ Pháp vương Di-Đà

Bốn mươi tám nguyện rộng xa

Độ sanh tất cả về tòa kim liên. O

 

13. THÀNH TÂM KỈNH LỄ

1. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai. O

2. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Vô Biên Quang Như Lai. O

3.  Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai. O

4. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Vô Đối Quang Như Lai. O

5. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai. O

6. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai. O

7. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Hoan Hỷ Quang Như Lai. O

8. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Trí Huệ Quang Như Lai. O

9. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Nan Tư Quang Như Lai. O

10. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Bất Đoạn Quang Như Lai. O

11. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai. O

12. Nam-mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới, Di-Đà hải hội, Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai. O

 

14. BÁT-NHÃ TÂM KINH

Khi hành Bát-nhã Ba-la                                                                            

Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng

Thấy ra năm uẩn đều không

Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.

Này Xá-Lợi Tử xét ra

Không là sắc đó, sắc là không đây

Sắc cùng không chẳng khác sai

Không cùng sắc vẫn sánh tày như nhau

Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào

Cũng như sắc uẩn một màu không không.

Này Xá-Lợi Tử ghi lòng

Không không tướng ấy đều không tướng hình

Không tăng giảm, không trược thanh

Cũng không diệt, cũng không sanh: pháp đồng

Vậy nên trong cái chơn không

Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần

Mắt, tai, nũi, lưỡi, ý, thân

Vị, hương, xúc, pháp cùng phần sắc, thinh

Từ không giới hạn mắt nhìn

Đến không ý thức, vô minh cũng đồng

Hết vô minh cũng vẫn không

Hết già, hết chết, giả không có gì

Không khổ, tập, diệt, đạo kia

Trí huệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành, sở đắc bởi không

Các vị Bồ-tát nương tùng tuệ năng

Tâm không còn chút ngại ngăn

Nên không có chút băn khoăn sợ gì

Đảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết-bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau xưa

Đắc thành Chánh giác đã nhờ tuệ năng.

Trí huệ năng lực vô ngần

Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu

Trí huệ năng lực có nhiều

Thật là thần chú trừ tiêu não phiền

Trí huệ năng lực vô biên

Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.

Liền theo lời chú thuyết rằng:

Độ tha, giác ngộ khắp trần chúng sanh. O

 

15. NGUYỆN VÃNG SANH

Muôn pháp không thường còn

Người sanh ắt có diệt

Sanh tử như thủy triều

Diệt tận, chơn phúc hiện.

Thác bền, sống không bền

Người đời ai cũng chết

Chết mục tiêu cuộc đời

Đúng y lời Phật dạy!

Kiếp sống trong ngắn ngủi

Chết thật là chắc chắn

Sớm muộn xác thân này

Trả về cho tứ đại.

Nhìn xem thể phách hoại

Xác như gỗ mục hư

Tánh thanh tịnh chơn như

Niết-bàn vô sanh diệt. O (3 lần)

 

16. TÁN THÁN PHẬT

A-Di-Đà Phật thân vàng

Tướng xinh, sắc tốt, minh quang ai bì

Bạch hào như núi Tu-Di

Mắt trông bốn biển so bì vẫn hơn

Hào quang hóa Phật vô ngần

Hóa Bồ-tát chúng vô cùng vô biên

Độ sanh bốn tám lời nguyền

Hàm linh chín phẩm đồng lên giác ngàn. O

Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi Tiếp dẫn Đạo sư A-Di-Đà Phật.         

Nam-mô A-Di-Đà Phật (3 lần hoặc tùy ý) O

Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần) O

Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần) O

Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần) O

Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 lần) O

 

17. SÁM THẬP PHƯƠNG

Mười phương ba đời Phật

Di-Đà đệ nhất danh

Độ sanh lên chín phẩm

Oai đức rộng thinh thinh.

Con nay quy y Phật

Diệt ba nghiệp mê tình,

Bao nhiêu phần phước đức

Hồi hướng khắp nhơn sanh,

Nguyện cùng người niệm Phật

Cảm ứng hiện điềm lành,

Lâm chung thấy Phật cảnh

Trước mắt hiện đành rành,

Thấy nghe đều tinh tấn

Cực Lạc đặng vãng sanh,

Thấy Phật dứt sanh tử

Như Phật độ hàm linh

Trừ vô biên phiền não

Tu vô lượng pháp lành

Chúng sanh nguyền tế độ

Phật đạo thảy viên thành.

Hư không còn có hết

Bổn nguyện vốn không cùng

Hữu tình, vô tình khắp

Trí huệ chứng viên thông. O

 

18. THẬP NGUYỆN

MỘT nguyền lễ kính Như Lai

HAI nguyền xưng tán công dày Thế Tôn

BA nguyền tu phước cúng dường

BỐN nguyền sám hối nghiệp vương tội trần

NĂM nguyền tùy hỷ công huân

SÁU nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người

BẢY nguyền thỉnh Phật ở đời

TÁM nguyền học Phật tùy thời phát minh

CHÍN nguyền hằng thuận chúng sanh

MƯỜI nguyền hồi hướng phướclành khắp nơi.

 

19. PHÚNG KINH

Tụng kinh công đức tuyệt vời

Xin đem hồi hướng khắp người gần xa

Chúng sanh pháp giới Ta-bà

Mau về cõi Phật Di-Đà Tây thiên. O

 

20. NGUYỆN TIÊU

Nguyện tiêu tam chướng não phiền

Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời

Nguyện bao nghiệp tội xa rời

Nguyện hành Bồ-tát đời đời độ tha. O

 

21. NGUYỆN SANH

Nguyện về Tịnh độ nước nhà

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình

Hoa khai ngộ pháp vô sanh

Bất thối Bồ-tát bạn lành dựa nương. O

 

22. HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức lành

Hồi hướng cho tất cả

Hương linh với chúng sanh

Đều chứng thành Phật quả. O

 

23. TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật

Cầu cho chúng sanh

Hiểu rõ đạo lành

Phát lòng vô thượng. O

 

Tự quy y Pháp

Cầu cho chúng sanh

Kinh luật hiểu rành

Trí huệ như biển. O

 

Tự quy y Tăng

Cầu cho chúng sanh

Hiệp chúng đồng tình

Chẳng hề trở ngại.

 



 


VII. CÁC KINH TỤNG THÊM

 

1. KINH VU-LAN BỒN 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ

Xá-Vệ thành, Kỳ thụ viên trung

Mục-Liên mới đặng lục thông

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền

Làm con hiếu hạnh vi tiên

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ

Không uống ăn tiều tụy hình hài

Mục-Liên thấy vậy bi ai

Biết mẹ đói khát, ai hoài tình thâm

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu

Thấy cơm, mẹ rất lo âu

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn

Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt

Sợ chúng ma cướp giật của bà

Cơm đưa chưa đến miệng và

Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu!

Thấy như vậy âu sầu thê thảm

Mục-Kiền-Liên bi thảm xót thương

Mau mau về đến giảng đường

Bạch cùng sư phụ cầu phương cứu nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn tội

Rằng: “Mẹ ngươi gốc tội kết sâu

Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu

Một mình không thể ai cầu đặng chi,

Lòng hiếu thảo của ngươi dẫu lớn

Tiếng vang đồn thấu đến Cửu tiêu

Dầu cho cảm động thần kỳ

Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên vương

Cộng ba cõi sáu phương tụ tập

Cũng không phương cứu cấp mẹ ngươi,

Muốn cho cứu đặng mạng người

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.”

Phép cứu tế Phật toan giải nói

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn

Bèn kêu Mục thị đến gần

Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi:

“Rằm tháng Bảy là kỳ Tự tứ

Mười phương Tăng đều dự lễ này

Ngươi toan sắm sửa chớ chầy

Đồ ăn trăm món, trái cây trăm màu

Lại phải sắm sàng phu ngọa cụ

Cùng quán, bồn, đỉnh chút nhang, dầu

Món ăn tinh sạch báu mầu

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

Chư Đại đức mười phương thọ thực

Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên,

Lại thêm cha mẹ hiện tiền

Đặng nhờ phước lạc tiêu khiên ách nàn.

Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ

Dầu ở đâu cũng tụ hội về

Như người thiền định sơn khê

Tránh điều huyên náo thẳng về thiền na,

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả

Công tu hành nguyện tỏa vô sanh,

Hoặc người thọ hạ kinh hành

Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng,

Hoặc người đặng lục thông tấn phát

Dạy những hàng Duyên giác, Thinh văn,

Hoặc chư Bồ-tát mười phương

Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh…

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh

Đạo đức dày chánh định chơn tâm,

Tuy là có bậc Thánh, phàm

Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.

Người nào có sắm ra vật thực

Đặng cúng dường Tự tứ Tăng thời

Hiện tiền phụ mẫu của người

Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn,

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi

Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,

Ví như cha mẹ hiện tiền

Nhờ vậy sẽ đặng bá niên thọ trường,

Như cha mẹ bảy đời quá vãng

Sẽ hóa sanh về cảnh Thiên cung

Người thời tuấn tú hình dung

Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.”

Phật lại bảo mười phương Tăng chúng

Phải tuân theo thể dụng sau này:

“Trước khi thọ thực đàn trai

Phải cầu chú nguyện cho người tín gia,

Cầu thất thế mẹ cha thí chủ

Định tâm thần quán đủ đừng quên,

Cho hay định ý hành thiền

Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.

Trước thọ dụng, tiên ban vật thực

Tại Phật tiền hoặc tại pháp trung

Chư Tăng chú nguyện viên dung

Sau rồi tự tiện lãnh dùng bữa trưa.”

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt

Mục-Liên cùng Bồ-tát các phương

Đồng nhau tỏ dạ vui mừng

Mục-Liên cũng hết khóc than rầu buồn

Mục-Liên mẫu cũng trong ngày ấy

Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan

Mục-Liên bạch với Phật rằng:

“Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn

Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra!

Như sau đệ tử Phật gia

Vu-Lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh

Độ cha mẹ còn đương tại thế

Hoặc bảy đời có thể đặng không?”

Phật rằng: “Lời nói rất thông

Ta vừa muốn nói, ngươi trùng vấn theo.

Thiện nam tử, Tỳ-kheo nam nữ

Cùng quốc vương, thái tử, đại thần

Tam công, tể tướng, bá quan

Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần,

Như chí muốn đền ơn cha mẹ

Hiện tại cùng thất thế tình thâm

Đến rằm tháng Bảy mỗi năm

Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về

Chính ngày ấy Phật Trời hoan hỷ

Phải sắm sanh bá vị cơm canh

Đựng trong bình bát tinh anh

Chờ giờ Tự tứ chúng Tăng cúng dường,

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ

Chẳng ốm đau, chẳng có khổ chi

Cùng cầu thất thế đồng thì

Lìa nơi ngạ quỷ sanh về Nhơn, Thiên

Đặng hưởng nhờ phước duyên vui đẹp

Lại xa lìa nạn khổ cực thân.

Môn sanh Phật tử ân cần

Hạnh tu hiếu thuận phải cần, phải chuyên

Thường cầu chúc thung huyên an hảo

Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh

Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm

Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền,

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt

Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu

Đệ tử Phật lo âu gìn giữ

Mới phải là Thích tử thiền môn.”

Vừa nghe dứt pháp Lan-Bồn

Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan

Mục-Liên với bốn ban Phật tử

Nguyện một lòng tín sự phụng hành

Trước là trả nghĩa sanh thành

Sau lo cứu vớt chúng sanh muôn loài. O

* * *

Vu-Lan phép nhiệm rải hồng ân

Tự tứ oai linh chuyển lực thần

Phật Tổ từ bi truyền chánh giáo

Mục-Liên thành khẩn cứu từ thân

U minh thoát khỏi đường oan nghiệp

Trần thế truyền roi dấu pháp luân

Thong thả muôn thu niềm hiếu hạnh

Trung nguyên hoài niệm luống bâng khuâng. O

* * *

Chứng đắc thần thông đạo quả thành

Chạnh niềm nhớ lại tấm ơn sanh

Mở to mắt huệ nhìn soi khắp

Se thắt lòng son, bóng vắng tanh

Chua xót căn nguyên đường ngạ quỷ

Ngẩn ngơ hình phạt chốn u minh

Bát cơm dâng mẹ nhìn tha thiết

Hóa lửa than ôi, thảm sự tình! O

* * *

Sự tình bạch Phật rõ căn nguyên

Lệ đổ, lòng đau xót khẩn nguyền

Thắng hội Vu-Lan tuyên pháp nhiệm

Thần oai Tự tứ vận cơ huyền

Thánh Tăng ngày ấy ban ân phước

Vong mẫu từ nay thoát nghiệp duyên

Liên tưởng sau xưa niềm hiếu nghĩa

Hai phen cứu tế vĩnh lưu truyền. O

* * *

Lưu truyền sự tích mấy ngàn năm

Mỗi độ Thu sang, mỗi độ rằm

Sắm lễ Vu-Lan cam mỹ phẩm

Dâng Tăng Tự tứ chí thành tâm

Mẹ cha kiếp trước duyên thanh thoát

Cha mẹ đời này phước thậm thâm

Mãn nguyện nhơn sanh mùa báo hiếu

Nhớ ơn Tôn giả lụy khôn cầm! O

Nam-mô Đại hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát. O (3 lần)

 

-------------------------------------


2. KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU TRỌNG ÂN

Một thưở nọ Thế Tôn an trụ

Xá-Vệ thành Kỳ thụ viên trung,

Chư Tăng câu hội rất đông

Tính ra tới số hai muôn tám ngàn,

Lại cũng có các hàng Bồ-tát

Hội tại đây đủ mặt thường thường,

Bấy giờ Phật lại lên đường

Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.

Đáo bán lộ đành rành mắt thấy

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,

Thế Tôn bèn vội đến nơi

Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.

Đức A-Nan tủi lòng ái ngại

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?

Vội vàng xin Phật dạy tường

Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài

Ai ai cũng kính thầy dường ấy

Cớ sao thầy lại lạy xương khô?

Phật rằng: “Trong các môn đồ

Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công,

Bởi chưa biết đục trong cho rõ

Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:

Đống xương dồn dập bấy lâu

Cho nên trong đó biết bao cốt hài,

Chắc cũng có ông bà, cha mẹ

Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh

Luân hồi sanh tử, tử sanh

Lục thân đời trước thi hài còn đây.

Ta lễ bái kính người tiền bối

Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.

Đống xương hỗn tạp chẳng vừa

Không phân trai gái, bỏ bừa khó coi

Ngươi chịu khó xét soi cho lỹ

Phân làm hai, bên nữ bên nam

Để cho phân biệt cốt phàm

Không còn lẫn lộn nữ nam chất chồng.”

Đức A-Nan trong lòng tha thiết

Biết làm sao phân biệt khỏi sai,

Ngài bèn xin Phật chỉ bày

Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt

Cách đứng đi, ăn mặc phân minh

Chớ khi rã xác, tiêu hình

Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.

Phật mới bảo: “A-Nan nên biết

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng:

Đàn ông xương trắng nặng oằn

Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,

Sanh con ba đấu huyết ra

Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con

Vì cớ ấy hao mòn thân thể

Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.”

A-Nan nghe vậy bi ai

Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo

Phương pháp nào báo hiếu song thân?

Thế Tôn mới bảo lời rằng:

“Vì ngươi, ta sẽ phân trần khá nghe

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc

Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang,

Tháng đầu thai đậu tợ sương

Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường,

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,

Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,

Bốn tháng đã tượng ra hình,

Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng,

Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,

Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương

Lại thêm đủ lỗ chân lông

Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn,

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,

Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,

Mười tháng thì đến kỳ sinh

Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu

Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung

Làm cho cha mẹ hãi hùng

Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân…

Khi sản xuất muôn phần an lạc

Cũng ví như được bạc được vàng.”

Thế Tôn lại bảo A-nan:

“Ơn cha nghĩa mẹ nhiều phần phải tin.

Điều thứ nhất, giữ gìn thai giáo

Mười tháng thường chu đáo mọi bề,

Thứ hai sanh đẻ gớm ghê

Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần,

Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng

Cực đến đâu bền vững chẳng lay,

Thứ tư ăn đắng nuốt cay

Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con,

Điều thứ năm, lại còn khi ngủ

Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,

Thứ sáu sú nước nhai cơm

Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê,

Điều thứ bảy, không chê ô uế

Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,

Thứ tám chẳng nỡ chia riêng

Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo,

Điều thứ chín, miễn con sung sướng

Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam

Tính sao có lợi thì làm

Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm,

Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt

Dành cho con các cuộc thanh nhàn

Thương con như ngọc như vàng

Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.”

Phật lại bảo: “A-Nan nên biết,

Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người

Mười phần mê muội cả mười

Không tường ơn trọng đức dày song thân,

Chẳng kính mến, quên ơn trái đức

Không xót thương dưỡng dục cù lao,

Ấy là bất hiếu mặc giao

Vì những người ấy đời nào nên thân.

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng

Cực khổ dường gánh nặng trên vai

Uống ăn chẳng đặng vì thai

Cho nên thân thể hình hài kém suy,

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề

Ví như thọc huyết trâu dê

Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan,

Con còn nhỏ phải lo chăm sóc

Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,

Phải tắm phải giặt rửa trôn

Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì,

Nằm phía ướt, con nằm phía ráo

Sợ cho con ướt áo ướt chăn,

Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân

Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương,

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ

Thân gầy mòn nào nệ với con,

Khi con vừa được lớn khôn

Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng

Cho đi học mở thông trí huệ

Dựng vợ chồng có thế làm ăn

Ước mong con được nên thân

Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi,

Con đau ốm tức thì lo chạy

Dẫu tốn hao đến mấy cũng đành

Khi con căn bệnh đặng lành

Thì cha mẹ mới an thần định tâm…

Công dưỡng dục sánh bằng non biển

Cớ sao con chẳng biết ơn này?

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy

Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang

Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt

Kinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi

Bà con chẳng kể ra chi

Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường

Lời dạy bảo song đường không kể

Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng

Trái ngang chống báng mọi đàng

Ra vào lui tới mắng càn người trên…

Vì lỗ mãn tánh quen làm bướng

Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn

Lớn lên theo thói hung hăng

Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung,

Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ

Nết tập quen làm sự trái ngang,

Nghe lời dụ dỗ quân hoang

Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người,

Trước còn tập theo thời theo thế

Thân lập thân tìm kế sanh nhai

Hoặc đi buôn bán kiếm lời

Hoặc vào quân lính với đời lập công,

Vì ràng buộc đồng công mối nợ

Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con

Quên cha, quên mẹ tình thâm

Quên sứ quên sở lâu năm không về…

Ấy là nói những người có chí

Chớ phần nhiều du hý mà thôi,

Sau khi phá hết của rồi

Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài

Theo trộm cướp hoặc là bài bạc

Phạm tội hình tù rạc phải vương,

Hoặc khi mang bệnh giữa đường

Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng…

Hay tin dữ, bà con cô bác

Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu

Thương con than khóc ưu sầu

Có khi mang bệnh đui mù vấn vương,

Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ

Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,

Hoặc nghe con chẳng lo lường

Trà đình tửu điếm phố phường ngao du

Cứ mài miệt với đàng bất chánh

Chẳng mấy khi thức tỉnh mộ khan

Làm cho cha mẹ than van

Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời,

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu

Không ai nuôi  thiếu thốn mọi điều

Ốm đau đói rách kêu rêu

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương…

Phận con gái còn nương cha mẹ

Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa

Cần lao phục dịch trong nhà

Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi,

Song đến lúc tùng phu xuất giá

Lo bên chồng, chẳng sá bên mình

Trước còn lai vãng viếng thăm

Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà,

Quên dưỡng dục song thân ân trọng

Không nhớ công mang nặng đẻ đau

Chẳng lo báo bổ cù lao

Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay,

Nếu cha mẹ la rày quở mắng

Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng

Chớ chi chồng đánh liên miên

Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than…

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ

Nói không cùng nghiệp dữ phải mang…”

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng

Trong lòng đại chúng lòng càng thảm thay

Gieo xuống đất lấy cây lấy củi

Đập vào mình, vào mũi, vào hông

Làm cho các lỗ chân lông

Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân

Đến hôn mê tâm thần bất định

Một giây lâu mới tỉnh than rằng:

“Bọn ta quả thật tội nhơn

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù!

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc

Ruột gan dường như nát như tan

Tội tình khó nỗi than van

Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu?”

Trước Phật tiền, ai cầu trần tố

Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân

Làm sao báo đáp thù ân

Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?

Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món

Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe:

“Ân cha nghĩa mẹ nặng nề

Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!

Ví có người ân sâu dốc trả

Cõng mẹ cha tất cả hai vai

Giáp vòng hòn núi Tu-Di

Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa!

Ví có người gặp cơn gió rét

Nuôi song thân dâng hết thân này

Xương nghiền thịt nát phân thây

Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng!

Ví có người vì công sanh dưỡng

Tự tay mình khoét thủng song ngươi

Chịu thân mù tối như vầy

Đến trăm ngàn kiếp ân này thấm đâu!

Ví có người cầm dao thiệt bén

Mổ bụng ra rút hết tâm can

Huyết ra khắp đất chẳng than

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng!

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn

Đâm vào mình bất luận chỗ nào

Tuy là sự khó biết bao

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền!

Ví có người vì ân dưỡng dục

Tự treo mình cúng Phật thế đèn

Cứ treo như vậy tròn năm

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền!

Ví có người xương nghiền ra mỡ

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình

Xương tan thịt nát chẳng phiền

Đến trăm ngàn kiếp ân trên chưa đền!

Ví có người vì công dưỡng dục

Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan

Làm cho thân thể tiêu tan

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền!...”

Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng

Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,

Đồng thinh bạch Phật lời rằng:

“Làm sao trả đặng ân thâm song đường?”

Phật mới bảo: “Các hàng Phật tử

Phải lóng nghe ta chỉ sau này,

Chúng ngươi muốn đáp ân dày

Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền,

Vì cha mẹ trì kiên phúng tụng

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa

Cúng dường Tam Bảo sớm trưa

Cùng là tu phước chẳng chừa món chi,

Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự tứ

Thập phương Tăng đều dự lễ này

Sắm sanh lễ vật đủ đầy

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ

Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình!

Mình cần phải cần chuyên trì giới

Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn

Những lời ta dạy đinh ninh

Khá nên y thử phụng hành đừng sai.

Được như vậy mới là khỏi tội

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,

Trong năm đại tội kể ra

Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay!

Sau khi chết bị đày vào ngục

Ngũ vô gián cũng gọi A-tỳ

Ngục này trong núi Thiết Vi

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề,

Trong ngục này hằng ngày lửa cháy

Đốt tội nhơn hết thảy thành than,

Có lò nấu sắt cho tan

Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình

Một vá đủ cho người thọ khổ

Lột thịt da đau thấu tâm can,

Lại có chó sắt rắn gang

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn,

Ở trong ngục có giường bằng sắt

Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong

Rồi cho một ngọn lửa hồng

Nướng quay chúng nó da phồng thịt đau,

Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo

Trên không trung đổ tháo như mưa

Gặp ai chém nấy chẳng chừa

Làm cho thân thể nát nhừ như tương…

 Những hình phạt vô phương kể hết

Mỗi ngục đều có cách trị riêng

Như là xe sắt phân thây

Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le

Chớ chi đặng chết liền rất đỡ

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân

Ngày đêm chết sống muôn lần

Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây!

Sự hình phạt tại A tỳ ngục

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,

Chúng ngươi đều phải ân cần

Thừa hành các việc phân trần khoản trên.

Nhất này phải kinh này in chép

Truyền bá ra cho khắp Đông, Tây

Như ai chép một quyển này

Ví bằng thấy đặng một vì Thế Tôn,

Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,

Do theo nguyện lực tùy duyên

Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền

Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh

Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung…”

Khi lời Phật giảng vừa xong

Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng,

Lại phát nguyện thà thân này nát

Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,

Dầu cho kéo lưỡi trâu cày

Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên,

Ví như bị bá thiên đao kiếm

Khắp thân này đâm chém phân thây

Hoặc như lưới trói thân này

Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai,

Dẫu thân này bị cưa, bị chặt

Phân chia ra muôn đoạn rã rời

Đến trăm ngàn kiếp như vầy

Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.

Đức A-nan kiền thiền đảnh lễ

Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh

Ngày sau truyền bá chúng sanh

Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.

Phật mới bảo: “A-nan nên biết

Quyển kinh này quả thật cao xa

Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”

Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.

Các ngươi phải giữ gìn châu đáo

Đặng đời sau y giáo phụng hành.”

Sau khi Phật dạy đành rành

Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui,

Thảy một lòng vâng theo lời Phật

Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,

Đồng nhau tựu lại Phật tiền

Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. O

 

-------------------------------------


3. KINH TỪ BI

Người khôn có đủ đức tài

Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình,

Dọn lòng an tịnh thanh bình

Tiến vào Cực Lạc vô sanh Niết-bàn,

Giữ lòng chánh trực đoan trang

Nhu hòa lương thiện chẳng màng phô trương,

Thanh bần an phận thủ thường

Không cam thế sự vấn vương cõi lòng,

Lục căn chế ngự nghiêm phòng

Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần,

Không làm nhơ bẩn tinh thần

Tránh lời chê trách, thánh nhân phê bình,

Mong cầu tất cả chúng sanh

Dồi dào hạnh phúc, hòa bình sanh nhai

Cầu cho ba giới bốn loài

Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài, bình trung

Béo gầy, nhỏ lớn khôn cùng

Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa

Chưa sanh hoặc đã sanh ra

Thảy đều thọ hưởng hà sa phước lành,

Nguyện không lừa gạt dối manh

Khinh người miệt chúng hư danh trang hiền,

Dầu cho thân thuộc xóm giềng

Người dưng, kẻ lạ, các miền xa xăm

Trong cơn phẫn nộ giận thầm

Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người,

Như lòng từ mẫu thanh tươi

Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con

Dầu cho một mất một còn

Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi,

Tình thương ghi tạc đời đời

Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang

Học đòi từ mẫu gương vàng

Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa

Chúng sanh trong cõi Ta-bà

Thoát vòng khổ não vượt qua luân hồi,

Hằng ngày rải khắp nơi nơi

Bốn phương tám hướng gầm trời bao la

Tấm lòng bác ái, vị tha

Gội nhuần tư tưởng, đậm đà tình thương

Lòng từ trong sạch như gương

Không pha ác cảm không vương tư thù,

Chí tâm trì niệm công phu

Khi đi, khi đứng chuyên tu tham thiền

Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên

Sưu tầm đạo quả gieo duyên Niết-bàn…

Đó là phương pháp thế gian,

Đó là hạnh kiểm đưa đàng vô sanh,

Thánh nhân ca tụng tán thành

Xuôi dòng thánh vức lữ hành nhập lưu

Vượt lên đến mức thắng ưu

Khai thông tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu

A-Hàm đạo tuệ gươm mầu

Tuyệt đường tà kiến, xả câu dục tình

Bất lai cảnh giới hữu hình

Phạm thiên tạm ngự nghiêm minh Niết-bàn. O

 



 


4. KINH VÔ NGÃ TƯỚNG

Lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, Ngài đến tại vườn Lộc Uyển, xứ Ba-La-Nại, thuyết pháp cho năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như nghe, bài thứ nhất là kinh Chuyển Pháp Luân và bài thứ nhì là kinh Vô Ngã Tướng.

 

Thuở Phật ở rừng Hươu

Dạy năm vị Tỳ-khưu

Rằng sắc thân vô ngã

Chẳng phải của ta đâu.

 

Nếu sắc thân hữu ngã

Không phải chịu khổ đau.

Vì sắc thân vô ngã

Nên thường chịu khổ đau.

 

Vì sắc thân vô ngã

Cho nên không thể có

Xin thân được thế này

Xin thân đừng thế nọ…

 

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Thảy đều y như nhau

Thảy đều là vô ngã

Thảy đều chịu khổ đau.

 

Này Tỳ-khưu các bậc

Thân thường hay vô thường?

Thân vô thường, bạch Phật.

Vật vô thường khổ vui?

 

Bạch Phật, vật ấy khổ.

Vật vô thường đã khổ

Có nên rằng của ta?

Bạch Phật, chẳng nên đó!

 

Này Tỳ-khưu các bậc

Thọ thường hay vô thường?

Thọ vô thường, bạch Phật.

Vật vô thường khổ vui?

 

Bạch Phật, vật ấy khổ.

Vật vô thường đã khổ

Có nên rằng của ta?

Bạch Phật, chẳng nên đó!

 

Này Tỳ-khưu các bậc

Tưởng thường hay vô thường?

Tưởng vô thường, bạch Phật.

Vật vô thường khổ vui?

 

Bạch Phật, vật ấy khổ.

Vật vô thường đã khổ

Có nên rằng của ta?

Bạch Phật, chẳng nên đó!

 

Này Tỳ-khưu các bậc

Hành thường hay vô thường?

Hành vô thường, bạch Phật.

Vật vô thường khổ vui?

 

Bạch Phật, vật ấy khổ.

Vật vô thường đã khổ

Có nên rằng của ta?

Bạch Phật, chẳng nên đó!

 

Này Tỳ-khưu các bậc

Thức thường hay vô thường?

Thức vô thường, bạch Phật.

Vật vô thường khổ vui?

 

Bạch Phật, vật ấy khổ.

Vật vô thường đã khổ

Có nên rằng của ta?

Bạch Phật, chẳng nên đó!

 

Sắc thô, tế, quý, tiện

Sắc bên trong, bên ngoài

Sắc tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là sắc thôi.

 

Các thầy dùng tuệ trí

Xem sắc theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

Thọ, thô, tế, quý, tiện

Thọ bên trong, bên ngoài

Thọ tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là thọ thôi.

 

Các Thầy dùng tuệ trí

Xem thọ theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

Tưởng thô, tế, quý, tiện

Tưởng bên trong, bên ngoài

Tưởng tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là tưởng thôi.

 

Các Thầy dùng tuệ trí

Xem tưởng theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

Hành thô, tế, quý, tiện

Hành bên trong, bên ngoài

Hành tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là hành thôi.

 

Các Thầy dùng tuệ trí

Xem hành theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

Thức thô, tế, quý, tiện

Thức bên trong, bên ngoài

Thức tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là thức thôi.

 

Các Thầy dùng tuệ trí

Xem thức theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

Này các thầy Tỳ-khưu

Thinh văn nghe thấy rõ

Chán nản thân, sắc, hành

Chán nản thức, tưởng, thọ.

 

Khi chán nản như thế

Được xa lánh dục tình

Được phát sanh trí tuệ

Nẻo giải thoát đành rành.

 

Bậc ấy đã hiểu rành

Đạo cao mình chứng đắc

Phận việc đã thi hành

Kiếp sanh rày chấm dứt.

 

Phật giảng kinh vừa dứt

Năm Tỳ-khưu hỷ hoan

Bốn ngã không còn chấp

Lậu hoặc thảy tiêu tan. O

 



 

VIII. CÁC BÀI KỆ TỤNG

 

1. KINH AN VỊ PHẬT

Lễ an vị kim thân Phật Tổ

Nơi đạo tràng là chỗ kính tôn

Chúng con dâng hết tâm hồn

Ngưỡng cầu đức Phật Thế Tôn chứng lòng.

Hàng Phật tử vun trồng cội đức

Đồng thành tâm hiệp lực tạo ra

Đạo tràng Tam Bảo nguy nga

Đặng cho có chỗ gần xa tu hành.

Chúng đệ tử lòng thành thỉnh rước

Kim thân Ngài ngự trước nơi đây

Giữa hàng tứ chúng bao vây

Một lòng kính lạy đức ngài Bổn Sư,

Ba mươi hai tướng, tám mươi cách đẹp

Đủ tài năng, đủ phép huyền linh

Khắp trong vạn vật chúng sanh

Tán dương ca ngợi công trình Thế Tôn

Trong ba cõi cũng không sánh ví

Đấng cao siêu đức trí vẹn toàn!

Phật là ngọn đuốc Từ quang

Chúng con noi dấu theo đàng Ngài đi.

Mong lượng cả Từ bi Tam Bảo

Chứng lòng thành tâm đạo chúng con,

Cầu xin Tam Bảo hằng còn

Chúng sanh nương tựa gieo bòn phước duyên. O

 

( Đọc tiếp bài Hồi Hướng Cầu Nguyện trang 4, “Làm xong được chút phước lành…” )

 

2. KINH PHÓNG SANH 

Phật dạy tánh hiền lành

Thương yêu cả chúng sanh

Dầu là loài vật mọn

Cũng Phật tánh như mình.

Con tập lòng từ ái

Nay mua vật phóng sanh

Nguyện ơn trên Phật chứng

Con tạo chút duyên lành.

Phước đức xin hồi hướng

Về cho cả chúng sanh

Nguyện cầu đời hết khổ

Dứt tuyệt nạn đao binh.

Thân mạng nay tồn tại

Do nhờ Phật pháp linh,

Vậy từ nay ráng nhớ

Câu niệm Phật tu hành. O

 

(Đọc như vậy 3, 7, 9, hoặc 12 biến, để trì tụng khi có phóng sanh )

 

3. LỄ THÍ PHÁT

Lễ thí phát xuất gia cắt tóc

Ra khỏi vòng lăn lóc trần gian

Nương về theo ánh đạo vàng

Lo tu giải thoát khỏi đàng trần ai!

Cảnh trần thế hết vay rồi trả

Trả rồi vay nhơn quả luân hồi

Bánh xe cứ mãi lăn nhồi

Trầm luân biển nghiệp hụp trồi khổ đau.

Nay thức tỉnh mau mau trở lại

Tìm con đường chánh đại mà đi

Noi gương các đấng Từ Bi

Xả thân cầu đạo chẳng vì tiếc tham.

Tóc phủi sạch không làm ác nữa

Bợn nhơ lòng quyết rửa từ nay

Tam tâm, tứ tướng diệt ngay

Thất tình, lục dục hôm nay quyết chừa

Ngày một ngọ, muối dưa đạm bạc

Chỉ tam y, nhất bát tùy thân

Đói no cực khổ chẳng cần

Miễn sao tâm trí được phần cao siêu!

Tóc đoạn phủi dứt tiêu oan nghiệp

Kể từ nay thoát kiếp đọa đày

Nương về cõi Phật cao ngai

Noi theo đuốc huệ của ngài Thích-ca.

Gương thuở trước Ngài ra tầm đạo

Tự cầm gươm phủi cạo tóc xanh

Con thơ, vợ đẹp cam đành

Đại hùng gươm huệ tơ mành đoạn xong,

Cắt tóc rồi hư không nhắm liệng

Ngài phát lời thệ nguyện như vầy:

“Dầu cho rã nát thân này

Nếu chưa thành đạo chẳng quay trở về!”

Tâm Đại lực Bồ-đề kiên cố

Chí Đại hùng nguyện độ chúng sanh

Sáu năm khổ hạnh tu hành

Thoát ra khỏi chốn tử sanh luân hồi,

Tu đắc quả vào ngôi Chánh giác

Chỉ con đường giải thoát cho ta.

Noi gương hạnh nguyện Thích-ca

Dầu cho gặp phải oan gia chớ sờn,

Thà chết sạch còn hơn sống đục

Mê mết chi chui rúc trong trần

Làm sao tránh khỏi tử thần

Làm sao tránh khỏi xoay vần oan khiên?

Nay hữu phước đa duyên hội ngộ

Gặp Thuyền Từ tế độ đưa sang

Lên bờ bỉ ngạn Tây phang

Tiêu diêu tự tại, thanh nhàn vĩnh miên.

Nay giới tử Phật tiền thí phát

Nguyện một lòng dầu thác chẳng phai

Đời đời, kiếp kiếp hậu lai

Noi gương theo dấu của ngài Thích-ca

Tu giải thoát lìa xa cảnh tục

Diệt hết tiêu lòng dục, tánh phàm

Những điều ưa chuộng, muốn ham

Thân tâm rửa sạch, già-lam dựa kề

Tu chứng đắc Bồ-đề Phật quả

Y theo đà đức cả Như Lai.

Hôm nay thiết lập đàn trai

Lễ nay thí phát cũng ngày ly thân,

Nhờ Tam Bảo ban ân nhỏ phúc

Những người tu thoát tục, ly trần

Tu cho trọn vẻ muôn phần

Tây phương cõi Phật kề gần Thích-ca. O

 

(Đọc trở lại liên tục, chừng dứt đọc bài Hồi Hướng trang 42, “Phẩm kinh con mới đọc rồi…”)

 

4. LỄ THỈNH PHÁP SƯ               

Lòng thành kính các hàng đệ tử

Xin thành tâm kính thỉnh Pháp sư

Mong Ngài mở tấm lòng từ

Pháp lành mưa xối vớt người trầm luân.

Cả sanh chúng thấm nhuần lý đạo

Nhờ Ngài đem Pháp bảo dạy khuyên,

Những người hữu phước, đa duyên

Nghe qua Pháp lý diệu huyền tỉnh tâm

Sớm giác ngộ nương tầm nẻo đạo

Dứt nghiệp trần cởi áo oan khiên

Trở về theo Phật, Thánh, Tiên

Tu cho đắc quả đến miền Lạc bang.

Đời biển khổ muôn ngàn đau khổ

Cõi Ta-bà không chỗ tựa nương

Mải mê trong giấc mộng trường

Sanh, già, đau, chết không lường kiếp qua.

Gương thuở trước Thích-ca Phật Tổ

Đem pháp lành tế độ chúng sanh

Thuyết minh chánh giáo ban hành

Chỉ đàng dẫn lối cho rành người tu

Đặng thoát khỏi khám tù nhốt phạt

Nhờ am tường thấu đạt lý chân,

Chúng con nay đã ân cần

Thành tâm cầu thỉnh Ngài phân giải bày

Nước cam lộ mưa ngay xối xả

Lửa trần gian tắt cả từ nay

Người người tỉnh giấc mê say

Nương về Tam Bảo ngày ngày lo tu! O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

5. LỄ CÚNG DÂNG TỊNH XÁ 

Kính bạch chư Tăng, Ni khất sĩ

Nhỏ phước lành hoan hỷ chứng minh,

Hôm nay tịnh xá hoàn thành

Chúng con dâng cúng đành rành lễ nghi.

Xin Giáo hội từ bi nhận lãnh

Mở khai ra một cảnh đạo trường,

Tiện cho bá tánh cúng dường

Chư Sư hành đạo nêu gương thơm lành.

Nơi đây sẽ viên thành quả phước

Chúng con đều hưởng được Phật ân

Được thêm tiến triển tinh thần

Được bề lợi ích, được phần bình an. O

 

(Tiếp đọc bài Hồi Hướng Cầu Nguyện trang 4, “Làm xong được chút phước lành…” )

 

6. LỄ CÚNG DÂNG Y BÁT

(Một người đại diện quỳ lên tác bạch)

 

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Kính bạch chư Trưởng lão, Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni.

Nay ngày rằm tháng Bảy, lễ Tự tứ Tăng và Vu-Lan-Bồn, toàn thể Phật tử chúng con đem hết lòng thành kính, xin dâng lễ cúng dường y bát và tứ vật dụng đến với Tam Bảo. Của này vốn của thiện lành trong sạch, mà Phật tử chúng con tự sắm tạo, làm ra, cắt may và giặt nhuộm, nay dâng cúng đến Giáo hội, ngưỡng mong hồi hướng phước báu này để cầu nguyện cho thế giới mau chóng đến thanh bình, nhơn sanh đồng an lạc, và cầu siêu cho Cửu huyền Thất tổ chúng con, cùng tất cả chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo. O

 

(Tất cả đồng đọc một lược)

 

7. CÚNG DÂNG Y BÁT

Nay ngày lễ cúng dâng y bát

Hàng thiện nam, tín nữ chúng con

Bốn phần tứ sự lo tròn

Cúng dường Tam Bảo gieo bòn phước duyên.

Xin hồi hướng Cửu huyền Thất tổ

Sớm vãng sanh Tịnh độ Tây phương

Những người hiện tại miên trường

Tăng long phước thọ, am tường lý chân.

Nhờ Tam Bảo ban ân nhỏ phước

Chúng con đều hưởng được Phật ân,

Được thêm sáng suốt tinh thần

Tròn đầy quả phúc, muôn phần bình an. O

 

(Tiếp tụng liên tục trở lại mãi, khi dứt đọc bài Hồi Hướng Cầu Nguyện trang 4, “Làm xong được chút phước lành…” )

 

8. NHỚ ƠN PHẬT

Đời chen lộn ngàn đường tội lỗi

Ta bước riêng một lối thanh cao

Đạo vàng quý báu biết bao

Vừa mình tu tỉnh, vừa trau sửa người

Cùng giải thoát khỏi nơi rừng thẳm

Dắt dìu nhau bước dẫm bon bon

Lối đi đã sẵn đường mòn

Công người khai vẹt ai còn nhớ chăng?

Đức Phật Tổ toàn năng toàn giác

Sanh trong trần nhưng khác người trần

Xem qua cuộc thế chuyển vần

Cảm thương muôn loại chịu phần đau thương,

Ngài tha thiết tìm phương cứu chữa

Tự đem mình nghiệm thử pháp môn

Dấn thân vào chốn núi non

Bỏ lìa điện ngọc, lầu son, ngai vàng

Tình phụ tử dứt ngang mãnh liệt

Nghĩa phu thê đoạn tuyệt can trường

Vượt qua tấm vách cương thường

Hiển nhiên khai mở con đường độ sanh.

Buổi sơ khởi đã đành khổ nhọc

Mảng lê chân, bảy lọc, ba lừa

Thấp cao đạo lý chẳng vừa

Bao phen tầm kiếm vẫn chưa thấy gì.

Ngài thong thả suy đi, nghĩ lại

Đạo có khi ở tại lòng ta

Hẳn nhờ định trí tìm ra

Xếp chân ngồi lại kiết già công phu.

Sáu năm chẳn ròng tu khổ hạnh

Tấm thân còn một mảnh xương gầy

Nắng mưa, sương gió nhuộm đầy

Yếu lần đến đổi một ngày mòn hơi.

Chợt tỉnh ngộ, tức thời thấy rõ

Đạo chưa thành, thân bỏ sao đang

Độ đời nguyện lớn thênh thang

Mỏi mòn thể vóc, đảm đang sao rồi?

Nghĩ cạn lẽ bèn thôi ép xác

Định ăn dùng đạm bạc thô sơ

Mỗi ngày một bữa ngọ trưa

Cũng vừa đủ sống lại vừa trau tâm,

Áo đã mặc nhiều năm rách rã

Lượm vải bô chằm vá, khiếu khâu

Khẽ khằm từng miếng kế đâu

Thành y bá nạp ngõ hầu che thân,

Rồi lần lượt bước chân giải thoát

Đem gương lành ôm bát hóa trai

Đói no đắp đổi qua ngày

Lúc chưa thành đạo nào ai biết nhiều…

Còn gặp phải lắm điều gay cấn

Sử chép rằng ngộ trận Ma vương,

Lúc Ngài nhập định phóng quang

Ma vương binh tướng nghinh ngang đánh đùa,

Nhưng chúng phải bị thua chạy trốn

Ngài vẫn ngồi an ổn tự nhiên

Từ bi gương mặt dịu hiền

Hào quang nhập định tham thiền túa ra.

Ma vương ấy họa là trần thế

E đạo Ngài chủ tể ngôi trên

Chơn tu đắp vững móng nền

Đổi xoay thế cuộc lập nên đạo trường

Thì quyền lợi đế vương sẽ thất

Tinh thần hưng, vật chất suy mòn

Công danh dầu miếng mồi ngon

Cũng không lay chuyển lòng son đạo vàng

Đời thế lực, ngang tàng áp bức

Đạo ôn hòa bủa đức phục thâu

Khó khăn muôn sự khởi đầu

Thương người dẫn đạo xiết bao nhọc nhằn.

Bên ngoài đã lăng xăng rắc rối

Bên trong còn tội lỗi gợi khêu

Những nàng ma nữ cợt trêu

Ấy là dục vọng quẩn theo bóng hình,

Nhưng Ngài dụng sức linh thiền định

Vững tinh thần, thanh tịnh chơn tâm

Vọng căn nguồn gốc đã tầm

Tham lam, sân, giận, si lầm dang xa,

Đắc trí huệ, soi ra vạn pháp

Phóng hào quang chiếu khắp ngàn trùng

Phép linh chứng được lục thông

Trải bao cố gắng khổ công bấy chầy!

Nắng vằng vặc, mưa mai, gió tối

Tròi trọi thân dưới cội Bồ-đề

Nhất tâm phát một lời thề:

“Nếu chưa thành đạo, chẳng hề dậy đi!”

Và nguyện lực sau khi đắc quả

Đi khắp nơi hoằng hóa chúng sanh,

Đầu tiên trên bước lữ hành

Lẽ loi chỉ có một mình đường xa,

Nhưng lần lượt trải qua các xứ

Phục thâu nhiều đệ tử giỏi giang

Lập thành Giáo hội đạo tràng

Đắp tô xong xả con đàng Tây phương.

Đoàn hậu tấn noi gương hành đạo

Chỗ gởi thân rốt ráo Niết-bàn

Khởi hành từ chốn trần gian

Về nơi Cực Lạc, dưỡng an đời đời.

Từ ngàn trước bao người giong ruổi

Nay chốn này đến buổi chúng ta

Con dòng hưởng lấy tài gia

Đoái nhìn sự nghiệp thương cha công trình,

Càng rộng lớn kinh dinh đồ sộ

Là người xưa lao khổ lại càng

Tìm ra được ánh đạo vàng

Nhọc nhằn một kẻ vẻ vang muôn người.

Ôi! Thật đáng cho đời kính ngưỡng

Công đức Ngài vô lượng vô biên!

Hỡi chư Phật tử hữu duyên

Nhớ ơn Từ phụ cần chuyên tu hành. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

9. CẦU NGUYỆN HÒA BÌNH

Đời gặp thuở can qua chinh chiến

Sống những ngày nguy biến kinh tâm

Kéo dài thê thảm nhiều năm

Đầy trời sát khí cõi âm hiện hình

Kẻ thác đi hồn linh tức tưởi

Người sống còn rũ rượi sầu thương

Kể đâu hết khúc đoạn trường

Bàn tay ác liệt vô thường gây nên…

Thử xét lại căn nguyên giặc giã

Bởi loài người mất cả lòng nhơn

Thế thì đạo đức hết trơn

Mất sao mất cả chữ Nhơn là người!

Đời như thế mất đời có phải?

Chữ Đời là mãi mãi đời đời

Nhơn từ ấy đạo bền dài

Vĩnh miên trường cửu đạo đây là đời.

Đời không đạo nên đời loạn khổ

Đạo ở đời thật chỗ an vui,

Dài dòng chẳng nói xa xôi

Tiến lên đạo chánh, dẹp lui đường tà.

Cầu học đạo ấy là cầu nguyện

Cầu sao cho phổ biến chúng sanh

Thế gian tất cả hiền lành

Tức thời thế giới hòa bình tự nhiên.

Một lẽ nữa căn nguyên giặc giã

Bởi người đời tham chạ giật giành

Miếng ăn, lẽ sống cho mình

Mà bao kẻ khác điêu linh khốn nàn.

Đạo cứu thế muôn ngàn điều luật

Đây hai điều phương thuật cứu tinh:

Không trộm cắp, không sát sanh

Ấy là hai đấng thần linh hộ trì.

“Nhơn: bất sát” không khi nào giết,

“Sát: bất nhơn” mất biệt tiếng người.

Bao nhiêu loài vật trên đời

Cũng là mạng sống, cũng thời mang thân

Cũng đau đớn chịu phần sanh tử

Nỡ lòng nào bày sự giết ăn

Oái ăm bạc ác vô ngần

Giết thân kẻ khác nuôi thân của mình!

Tâm đã chẳng động tình bi thiết

Mất thiện lương lịm chết cõi lòng

Quen tay giết được đèo bòng

Mạng người đồng loại cũng không ngại ngùng!

Càng tập nhiễm ăn dùng huyết nhục

Tánh tình người lắm lúc đổi thay

Thấm vào cơ thể lâu ngày

Hòa chung chất máu các loài thú muông.

Đời hăng hái say cuồng chém giết

Bởi nung bầu nhiệt huyết bùng sôi

Hồn oan chết thảm khôn nguôi

Thù xưa vương vấn giục xui giặc loàn.

Nay hằng muốn giải oan dứt nghiệp

Phép tu trì cần kíp ban hành

Mỗi người phải cữ sát sanh

Xót thương loài vật lòng lành ăn chay.

Theo luật sống chẳng ai được giết,

Không sanh người, sao diệt mạng người?

Lập nên luật sống ở đời

Bảo tồn mạng sống các loài nhỏ nhen.

Nếu con kiến có quyền được sống

Thì loài người luật rộng biết bao,

Tự do sống mãi bền lâu

Miễn đừng đoản mạng giảm thâu tuổi dài.

Ăn đủ sống mỗi ngày đơn giản

Mễ cốc đều có sẵn khắp nơi,

Cấy cày, trồng tỉa, đua bơi

Ấy là phận sự của người cư gia,

Bậc giải thoát lìa xa nghệ nghiệp

Được nhẹ mình độ tiếp chúng sanh

Hạnh tu Khất Sĩ lữ hành

Mỗi ngày khất thực trì bình giáo khuyên

Mượn pháp ấy làm duyên tế độ

Cho thế trần được chỗ gieo nhơn

Tập lòng bố thí ra ơn

Lòng tham dứt bỏ, đạo chơn hầu gần.

Đã bố thí một lần cả thảy

Lộc của mình để lại cho đời

Ra đi chẳng dính trong người

Mảy may danh lợi, tăm hơi của tiền

Rồi xin lại luân phiên mỗi bữa

Một bát cơm đủ chứa dạ dày

Chẳng dư cất để nhiều ngày

Không hay phung phí tốn xài chi chi.

Người bố thí sau khi mình thí

Nên kẻ đời gắng chí học theo,

Lòng tham làm giặc hiểm nghèo

Hạnh tu bố thí gương treo sửa đời.

Pháp khất thực dạy người bố thí

Cùng dạy mình chơn lý không tham,

Bao giờ dứt tánh mê ham

Muôn ngàn phận sự việc làm đều xong.

Bằng trái lại nếu không huấn tập

Bước ra đời tạo lập thân danh

Ô hô, sự nghiệp tan tành

Lại thêm báo hại chúng sanh khổ sầu!

Trong đời phải cần tu hai pháp

Ăn chay và vui hạp đi xin

Luật nghiêm, giới cấm giữ gìn

Muôn người hòa hiệp như in một người.

Ấy phương pháp lập đời đạo đức

Dẫn loài người đến mức yên vui

Không còn loạn khổ chia phôi

Ủ ê tang tóc, ngậm ngùi đau thương.

Cùng hiệp trí tìm phương cầu nguyện

Cầu xin cho xuất hiện triết nhân

Đảm đang phận sự độ trần

Cao xuê ngôi vị đáng phần Thế Tôn. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

10. THUYỀN TRÍ HUỆ

Thuyền Trí Huệ ngược dòng rẽ sóng

Đèn quang minh rạng bóng soi đời

Ai người trồi hụp chơi vơi

Khá mau bám níu vào nơi mé bờ!

Biển trần thế đục nhơ đã lắm

Bao anh hùng chìm đắm khổ nguy

Nước tham một dãy đen sì

Gió cuồng nổi dậy sân si ba đào.

Mãi xao xuyến tranh nhau vật chất

Phí công linh bùn đất đắp tô

Của trần càng tóm thâu vô

Là càng chôn lấp dưới mô sình lầy.

Lòng tự thị mưu hay kế giỏi

Chước phân ranh chia cõi rẽ bờ

Kẻ khôn lấn hiếp người khờ

Ngọn trào tham lợi bấy giờ nổi lên.

Sóng cuồng cuộn vang rền gào thét

Nước chảy nhào, xô vẹt lướt phăng

Thương ôi, cái bọt trôi lăn

Nhấp nhô mờ mịt, khi thăng khi trầm…

Lúc biển động, tối tăm trời đất

Cõi âu sầu phảng phất u minh

Trần hoàn vạn vật chúng sanh

Âm thầm khổ sở, linh đinh khốn nàn.

Trải bao đoạn lầm than tai biến

Ánh triêu dương xuất hiện từ từ

Quang minh rạng rỡ thái hư

Muôn loài ngưng dứt ưu tư, kinh cuồng.

Tai nghe tựa tiếng chuông cảnh tỉnh

Mắt thấy xa đủng đỉnh thuyền khơi

Du Tăng khất sĩ ra đời

Chiếc thuyền Giáo hội vớt người trần duyên.

Những ai dứt oan khiên túc trái

Mau thoát ra khổ hải, mê tân

Giấc mơ ngàn kiếp tỉnh lần

Lối đi ngàn kiếp bước chân đã dừng.

Đồ vật chất thôi đừng tạo sắm

Cõi đất bùn say đắm làm chi

Giàu sang càng nặng kéo trì

Tiếc thương lưu luyến dứt đi đặng nào!

Sao bằng đặng bước vào thuyền giác

Thể không không giải thoát nhẹ nhàng

Đưa qua bỉ ngạn đạo tràng

Tăng-già Phật xứ, đất vàng sống chung

Cõi tịnh lạc thung dung ngày tháng

Chẳng còn lo khổ nạn nhiễu nhương

Những là mừng giận, ghét thương

Buồn vui, ưa muốn, như thường, như không.

Tóc vừa cạo tơ lòng đoạn phủi

Cuốn sổ đời tên tuổi đã bôi

Nợ trần ngày ấy dứt rồi

Tây phương ngày ấy một ngôi sẵn dành!

Kể ngày ấy vãng sanh xứ Phật

Học đạo mầu, nhiệm mật huyền vi

Làm Tăng ôm bát, đắp y

Vâng hành pháp báu, giữ trì giới nghiêm

Năng nghiên cứu xét tìm chơn lý

Gắng tham thiền huệ trí phát sanh

Sáng tâm tỏ tánh đành rành

Tinh chuyên nhập định đắc thành thần thông

Màn huyền bí bên trong hé mở

Máy nhiệm mầu lộ hở lần ra

Rõ ràng đạo quả đâu xa

Chơn tu thành Phật, Phật là người tu. O

Nam-mô Bổn Sư Thích Mâu Ni Phật. O (3 lần)

 

11. CHÚC MỪNG CHÁNH PHÁP 

Đèn Chánh pháp ngày nay tỏ rạng

Như mặt trời chiếu sáng phương Đông

Nhơn sanh đều tỉnh giấc nồng

Phóng xa tầm mắt nhìn trông vui mừng.

Mừng thấy rõ phục hưng đạo Phật

Bấy lâu nay ẩn khuất khôn tường

Hiện giờ sáng tỏ bốn phương

Tiếng thơm vang dội, mùi hương ngạt ngào.

Nhờ Giáo chủ truyền trao giáo lý

Pháp Xuất gia Khất Sĩ tu hành

Diệt trừ tận gốc lợi danh

Không còn chen lộn đua tranh với đời.

Trường Giáo hội là nơi Cực Lạc

Kẻ vãng sanh đã khác người trần

Sống riêng trong cõi tinh thần

Trau tâm dồi trí, sắc thân chẳng màng.

Mượn thân ấy lên đàng cứu khổ

Để thế gian làm chỗ dựa nương,

Tự người săn sóc cúng dường

Ra công tô đắp con đường tương lai.

Ngày một bữa ngọ chay đạm bạc

Thể ít nhiều lê hoắc tùy duyên

Pháp mầu khất thực giáo khuyên

Nêu cao một tấm gương hiền soi chung.

Về chỗ ở ung dung nhàn hạ

Dưới gốc cây lều lá đơn sơ

Miễn là tránh nắng, đụt mưa

Không cần xinh đẹp, chẳng ưa màu mè.

Về sự mặc đủ che thân thể

Không se sua, không vẻ phù hoa

Tấm y bá nạp nhu hòa

Đám mây chở khách Ta-bà vân du.

Hạnh Khất sĩ phép tu theo Phật

Lẽ sống chung vạn vật chúng sanh

Không riêng xã hội, gia đình

Không phân chủng loại hữu tình, vô tri.

Người giải thoát đoạn ly thế sự

Hiệp thành đoàn Tăng lữ du phương

Giáo đoàn có đấng Pháp vương

Dạy môn Bồ-tát, mở đường Như Lai.

Pháp trí huệ biện tài vô ngại

Vừa học qua, vừa dạy chúng sanh

Chính trong chỗ học và hành

Nhiều nơi kinh nghiệm được thành toàn năng.

Pháp thiền định thượng tằng huyền diệu

Đắc thần thông thấu hiểu thiên cơ

Rủi may việc trước ai ngờ

Giúp cho thiên hạ được nhờ phép linh.

Rừng trần thế u minh mờ tối

Người lạc vào mất lối trở ra

Sanh thân, rồi lớn, rồi già

Rồi đau, rồi chết, lìa qua một đời

Rồi theo nghiệp luân hồi trở lại

Cũng sanh thân, cũng phải tấn tuồng

Bánh xe tứ khổ quay cuồng

Sanh, già, bệnh, chết theo guồng chuyển xoay!

Người đời mãi tạo gây vọng nghiệp

Để rồi ra chịu kiếp luân trầm

Việc làm người vẫn vô tâm

Nào hay có chỗ lạc lầm về sau…

Ai là kẻ thương nhau dìu dắt

Chỉ cho người biết chắc lối đi

Vượt qua khỏi đám rừng nguy

Thoát ra số kiếp lưu ly trở về?

Kìa chánh đạo Bồ-đề rạng tỏ

Khất Sĩ môn vạch rõ con đường

Hạnh tu cao viễn phi thường

Cũng như đuốc sáng soi đường lối thông!

Kẻ dẫn đạo ra công dìu dắt

Lời pháp lành khuyên nhắc ân cần

Cho người biết nẻo tu thân

Đưa người khỏi chốn xoay vần tội khiên.

Ôi! Trần thế hữu duyên, hữu phước

Mấy ngàn năm gặp được ngọn đèn

Phá tan tình trạng tối đen

Khắp nơi sáng suốt nhờ Đèn Minh Quang!

Bóng khất sĩ áo vàng ánh chói

Những ngọn đèn chiếu rọi sáng trưng

Nhơn sanh chốn chốn vui mừng

Mừng cho chánh pháp phục hưng thạnh thời. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

12. TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC GIÁO CHỦ 

Cúi đầu lạy trước tháp vàng

Chúc cầu Giáo hội đạo tràng vĩnh miên

Ngôi xuê Giáo chủ ngự yên

Đức Ngài tột bậc ở trên cõi trần

Quang minh tướng tốt vô ngần

Nhân lành nhiều kiếp góp phần tạo nên

Công trình quá khứ nào quên

Đường trần ngàn lối, bước lên nẻo lành

Xuất thân khổ hạnh tu hành

Lập nên giáo lý tự mình tìm ra

Nối truyền Chánh pháp Thích-ca

Hăm lăm thế kỷ nay đà mờ phai

Người tu hiện tại mấy ai

Hành theo đúng phép Như Lai giáo truyền

Đâu còn thấy rõ chơn nguyên

Xuất gia nhập đạo, trần duyên dứt lìa

Kẻ Tăng, người tục phân chia

“Tăng vô nhất vật” xưa kia thanh bần

Một y, một bát, một thân

Ngoài ra chẳng bận mảy trần trong tâm!

Nhưng nay Ngài lại giáng lâm

Đem đèn trí huệ soi nhằm nước Nam

Mở ra một cõi già-lam

Những người nhập Thánh siêu phàm ít đâu!

Đạo tràng thành lập bấy lâu

Luật nghiêm chọn lọc gồm thâu sĩ hiền

Nơi đây thế giới vô phiền

Không còn tham đắm chức quyền, lợi danh

Mỗi người áo vá một manh

Một bình bát đất du hành khắp nơi

Sáng ra khuyến giáo độ đời

Trưa về thọ thực, xế thời thuyết kinh

Chiều, khuya quán tưởng lặng thinh

Nửa đêm nhập định, điển linh ngưng thần…

Người tự giác ngộ độ thân

Giác tha, độ thế dạy dân tu trì

Nào đâu có tiếng thị phi

Nào đâu có cảnh lâm ly đau sầu?

Chúng con khổ sở hèn lâu

Rủ nhau tìm đến mong cầu dựa nương

Đạo vàng như ánh triêu dương

Thế trần như giữa đêm trường tối tăm!

Bao phen sụp hố, sa hầm

Ngày nay tỉnh mỉnh biết tầm nẻo ra

Về đây gặp cửa, gặp nhà

Gặp cha mẹ cũ, gặp bà con xưa

Ân lành nhuần hạt móc mưa

Đức Ngài ban rưới phước thừa chúng con. O

 

MINH thiên huệ nhật xuất Đông phương

ĐĂNG chí cao sơn triệu kiết tường

QUANG chiếu thế âm hàm vạn vật

HIỆN lại ẩn khứ chuyển luân vương!

 

Trời mai mặt nhật hiện phương Đông

Vượt khỏi non cao chiếu sắc hồng

Phổ ánh hào quang soi vạn vật

Đi đến, qua lại biết bao vòng.

 

MINH như hồng nhật lệ trung thiên

ĐĂNG nguyệt huỳnh huê chiếu diệu huyền

QUANG huệ tuyên lưu toàn thế giới

HIỆN thân thuyết pháp độ chơn nguyên!

 

Sáng như mặt nhật giữa trời thanh

Tỏ tợ đèn trăng chiếu sắc huỳnh

Phóng ánh hào quang soi thế giới

Hiện thân thuyết pháp độ nhơn sanh.

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

13. NGUYỆN VỀ CÕI PHẬT

Con xin lạy đấng Đại Hùng

Đức Ngài giải thoát khỏi vòng trần duyên!

Cõi đời con sống đảo điên

Đau thương lắm nỗi, ưu phiền xiết bao

Áo trần con lỡ mặc vào

Nợ trần con biết ngày nào cổi ra

Cũng như đứa trẻ lìa nhà

Lạc loài, càng bước càng xa, xa vời…

Bơ vơ trên quảng đường đời

Kìa là hang vắng, kìa thời rừng hoang

Thập thò mảnh hổ, ác lang

Trí con khủng khiếp kinh hoàng khóc la

Chập chờn bóng quỷ, hình ma

Tâm con hồi hộp thiết tha nguyện cầu

Rừng đời càng bước vào sâu

Là càng rùng rợn, lo âu phập phồng…

Yếu thơ trước cảnh hãi hùng

Nhỏ nhen con thấy lạnh lùng thân côi

Đường về nhà đạo xa xôi

Đường theo cuộc thế ôi thôi đoạn trường!

Sấn vào trong cõi bi thương

Trăm ngàn nỗi thảm vấn vương bên mình,

Chung quanh đầy những khổ hình

Chẳng hay con mắc tội tình chi đây?

Ngán cho số kiếp đọa đày

Tủi cho thân phận lạc loài éo le!

Bàng hoàng giữa chốn rừng mê

Chẳng ai giùm chỉ đường về cho con

Ngây thơ trí nhớ đâu còn

Lại thêm nạn chướng giết mòn tánh linh.

Đồng thời nhiều kẻ chung quanh

Rủ con vào nghiệp chúng sanh luân hồi

Dây oan khi đã cột rồi

Tên ghi, hồn gởi thì thôi còn gì

Giấc mơ nhiều kiếp li bì

Càng quanh lộn mãi càng si mê hoài!

Mảng lo xây đắp mộng đài

Ở nơi huyễn cảnh dặc dài thời gian

Niên hoa mấy độ nở tàn

Chủ nhơn khuất bóng trong màn vô minh!

Cõi trần kiếp kiếp lụy mình

Dây thương vấn vít, lưới tình bủa giăng

Áo quần, vật chất trói trăn

Cửa nhà nhốt phạt, miếng ăn hành hà

Cơn đau hấp hối rên la

Hung thần, ác quỷ, cõi ma hoành hành

Mảnh thân khổ sống cam đành

Lại thêm khổ chết giật giành chia phui!

Lòng con luống những ngậm ngùi

Trót đem linh tánh nhuộm mùi trần gian

Thân này đã lỡ vương mang

Khổ này mới phải trăm ngàn tai ương!

Não nề với cảnh đau thương

Lắm khi con muốn tìm đường thoát thân

Than ôi! Dính chặt lưới trần

Dễ gì tháo gỡ một lần cho ra

Nghiệp duyên chẳng chịu buông tha

Sức con yếu kém khó qua phép đời!

Kiếp trần biển khổ chơi vơi

Con đang trồi hụp, đuối hơi vẫy vùng

Cúi xin lạy đấng Đại Hùng

Đức Ngài giải thoát khỏi vòng trần duyên

Từ bi vô lượng vô biên

Cứu con thoát chốn oan khiên đọa đày!

Cúi xin đảnh lễ Đức Ngài. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 

14. KHUYÊN ĐỪNG GIẾT THÚ

Muôn loài nào khác chi ta

Cũng tìm sự sống, lánh xa tai nàn

Có cha mẹ, có họ hàng

Kết bè sanh hoạt, hiệp đoàn siêng năng.

Ta đừng giết nó mà ăn

Cũng đừng bắt nó trói trăn, giam cầm

Bẫy, câu, chước độc mưu ngầm

Làm cho chúng nó âm thầm đớn đau,

Lạc bầy dớn dác xôn xao

Lại e cái nạn thớt dao hầu gần.

Mình có thân, nó cũng có thân

Nuôi mình, giết nó trái cân công bằng.

Lâm mình cảnh ấy khổ chăng?

Giả như có kẻ bắt phăng chúng mình

Mẹ cha, cô bác thảm tình

Xót xa đã lắm, bất bình biết bao

Ruột rà ai cắt chẳng đau

Tình thương ai dứt chẳng đau gan vàng

Nếu ta suy nghĩ kỹ càng

Tình này, cảnh ấy rõ ràng tương thân.

Làm người, ta có lòng nhân

Hãy khơi tánh Phật lần lần sáng ra,

Người cùng muôn vật một nhà

Ta là anh chị, chúng là đàn em

Khôn hơn ta phải xét xem

Trông nom giúp đỡ đàn em dại khờ

Khi lâm nạn chúng bơ vơ

Mau tay tiếp cứu chớ ngơ mắt nhìn,

Thấy ai giết thác sanh linh

Lấy lời khuyên giải, dụng tình cản ngăn…

Thú kia nó cũng là thân

Cũng xương, cũng thịt có phần như ta

Đánh nhau chúng nó kêu la

Tiếng rên đứt ruột, tiếng la xé lòng!

Tánh linh người vật cũng đồng

Xuống tay bao nỡ, cầm lòng sao đang,

Thân ta thì muốn cho an

Mà thân kẻ khác lại toan xéo dày,

Lòng ta muốn tránh nạn tai

Sao cùng kẻ yếu ra oai dữ dằn?

Nếu ta biết lẽ công bằng

Biết câu phước tội, biết căn luân hồi

Chớ nên giết nó đành rồi

Cũng đừng hành hạ, tỏ lời dễ khinh

Chớ cho chúng khổ vì mình

Mở lòng thương xót tấm hình hài kia

Đừng làm chúng nó chia lìa

Con này xa mẹ, vợ kia cách chồng

Đừng bày cắt cổ, nhổ lông

Việc làm cũng phải dự phòng về sau…

Dây oan ai lại buộc vào

Kiếp này gây nợ, kiếp nào trả xong?

Muốn cho mình được thong dong

Đừng làm kẻ khác khổ lòng làm chi.

Chớ vì một chút sân si

Mà bao oan trái kéo trì cuốn lôi.

Muốn ra khỏi biển luân hồi

Quả kia phải hái cho rồi, đừng gieo

Dừng chân là bóng chẳng theo

Nhơn tay thì nghiệp chẳng đeo bên mình.

Ai ơi! Nên khá giữ gìn… O

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O (3 lần)

 



 

 


Phụ lục: CÁCH THỨC ĂN CHAY

Quý Phật tử cần nên ăn chay, để trưởng dưỡng hạt giống từ bi Phật tánh nơi lòng và cũng tránh khỏi gây nghiệp sát sanh là giới thứ nhất mà Đức Phật đã nghiêm cấm… Ngày ăn chay phải giữ tâm trong sạch, tránh điều tội ác, làm việc nhơn từ, yêu người mến vật, mở rộng tình thương… Ngày ăn chay không nên dùng đến những gì sanh mạng của thú vật như : thịt, cá, tôm, cua, sữa, bơ và các loại trứng cùng ngũ vị tân là hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu…

Các ngày ăn chay tính theo Âm lịch :

- TỨ TRAI : ngày mùng 1 – 14 – 15 – 30

- LỤC TRAI : ngày mùng 1 – 8 – 14 – 15 – 23 – 30

- BÁT TRAI : ngày mùng 1 – 8 – 14 – 15 – 18 – 23 – 24 – 30

- THẬP TRAI : ngày mùng 1 – 8 – 14 – 15 – 18 – 23 – 24 – 28 – 29 – 30

- NHẤT NGOẠT TRAI : ăn trọn tháng Giêng

- TAM NGOẠT TRAI : ăn trọn tháng Giêng, tháng 7, tháng 10

- TỨ NGOẠT TRAI : ăn trọn tháng Giêng, tháng Tư, tháng 7 và tháng 10

Và ăn chay lần cho đến trường chay là công đức quý báu vô lượng.

 

(HẾT)

 

------------------------------------------------------