CHÁNH PHÁP LÀ THUỐC THẦN DIỆU CHỮA DỨT MỌI TÂM BỆNH CỦA CHÚNG SANH!

Thư viện Chánh Pháp / Chơn Lý / GIỚI BỔN TĂNG KHẤT SĨ - Chơn Lý 14

, Thứ Hai 2011-09-17

 

GIỚI BỔN TĂNG KHẤT SĨ

(Chơn Lý 14)

 

 

GIỚI BỔN TĂNG

TỨ PHẦN LUẬT TỲ KHEO 250 GIỚI

 

 

Tỳ-kheo Tăng khất sĩ, trong  ngày Rằm và 30 của mỗi tháng phải tựu họp lại đọc luật, không được vắng mặt. Mỗi lần đọc phải từ 4 vị sắp lên (một Tăng là 4 vị, một Giáo hội là 20 vị).

 

Sa-di, tập sự phải đi ra.

Ai vắng mặt phải có người thay lời.

Giáo hội Tỳ-kheo Ni có xin thỉnh Tăng qua thuyết pháp, phải sắp đi cho rồi.

ChưTỳ-kheo phải tựu đủ rồi.

 

Đại đức nói:

 

Ngay hồi sanh tiền, đức Phật có dạy chư Tăng phải họp mặt nhau một tháng hai kỳ, để khuyên răn sám hối với nhau mà giữ gìn đạo hạnh. Chúng ta cúi đầu tôn trọng Phật, Pháp, Tăng. Nay chúng ta hội lại theo lệ cũ, mà chúng ta khéo giữ gìn, để bảo tồn chánh pháp luôn luôn.

 

Giới luật thật là mênh mông, mênh mông như biển cả, thật là quý giá, quý giá hơn vàng bạc, mà người ta hằng tầm tòi, chẳng biết mệt nhọc. Ấy vì muốn bảo tồn cái kho quý của giới luật Phật, nên chúng ta họp nhau tại đây. Vậy chư Đại đức hãy nghe tôi, để khỏi phạm giới to hoặc nhỏ. Và các ngài, chư Phật Tỳ-bà-thi, Thích-khí, Tỳ-xá, Ca-la-tôn-đại, Câu-na-hàm Mưu-ni, Ca-diếp, Thích-ca Mưu-ni, và các Ngài đại từ đại bi, đáng cho chúng sanh sùng bái, xin các Ngài giúp cho tôi nói, tôi muốn nói những điều tôi phải nói. Và chư Thinh Văn Đại đức hãy nghe tôi:

 

Một người thiếu chân không đi được; cũng như thế, một người sống đời mà thiếu luật, không lên cõi thượng thiên được. Ai muốn sanh lên cõi trên ngay kiếp này, phải giữ giới luật cho chín chắn kỹ càng, vì nó là chân của mình, mà mình không được khinh thường.

 

Một người đánh xe, lúc qua truông hiểm, thấy mất cái chốt ở bánh xe, hay thấy cốt xe gãy, nó có rầu hay không? Kẻ phạm giới cũng thế, đến giờ chết thì rầu lắm.

 

Một người khác, soi gương vui hay buồn, là do ở mặt mình tốt hay xấu, sạch hay dơ. Giới luật mà đọc ra đây cũng có cái kết quả y như vậy đó, chư Thinh Văn sẽ được vui hay buồn, là do nơi mình có trì giới hay phạm giới.

 

Hai bên nghịch giao chiến, bên nhát thối lui; cũng như thế, ai trong sạch thì vững bụng, ai lầm lỗi phải sợ lo. Ông vua hơn mọi người, biển cả hơn các thứ ngòi rạch, mặt trăng hơn các ngôi sao, Phật hơn các thánh hiền, cũng như thế, giới luật đọc hôm nay hơn các giới luật khác.

 

Vậy nên đức Phật của chúng ta có lập ra cái lệ này mà không ai được bỏ qua: mỗi kỳ nữa tháng phải đọc Giới bổn một lần. Vậy thì bạch chư Đại đức, tôi xin đọc Giới bổn, hãy nghe cho kỹ, hãy xét cho kỹ. Ai thấy mình phạm hãy khai ra, còn ai biết mình vô tội cứ lặng thinh. Các Ngài mà nín, tôi sẽ kết nhận rằng các Ngài trong sạch, dầu tôi có hỏi chung cũng cầm bằng hỏi riêng từng người. Ai có tội, để tôi hỏi qua 3 lần mà không trả lời, người ấy sẽ phạm giới vọng ngữ.

 

Phật có dạy rằng: ai vọng ngữ mà không khai ra, không thế nào tấn tới về đạo đức, các Ngài khá tránh chỗ đại hại đó. Ai có phạm điều gì, và có muốn thanh tịnh lại, cứ khai ra rồi sẽ được an tâm và vui vẻ.

 

Vậy tôi xin đọc đoạn vô đầu…

 

 

A. 4 ĐẠI GIỚI (trục xuất)

 

1. Đại dâm giới - Cấm dâm dục.

2. Đại đạo giới - Cấm trộm cắp.

3. Đại sát giới - Cấm sát sanh.

4. Đại vọng ngữ giới - Cấm nói dối.

 

Bạch chư đại đức, tôi vừa đọc xong 4 Đại giới – trục xuất, vậy chẳng hay trong các ngài có ai phạm chăng?

 

(Hỏi 3 lần, rồi tiếp…)

 

Các ngài đều được trong sạch, vì tôi thấy ai nấy đều lặng thinh.

 

 

B. 13 GIỚI TỔN HẠI TĂNG TÀN (giáng cấp)

 

1. Cấm lấy tay tự làm sự dâm.

2. Cấm rờ mình đàn bà.

3. Cấm chọc ghẹo, dụ dỗ đàn bà.

4. Cấm làm mai, cưới gã, sự hẹn hò.

5. Cấm khoe phép tinh tấn với đàn bà.

6. Cấm tự ý cất phòng sái luật, và không trình chỗ cất.

7. Cấm không trình chỗ cất, mặc dầu tự ý thí chủ cất cho.

8. Cấm cáo gian một vị Tỳ-kheo khác một tội gì mà không có.

9. Cấm dùng cách thế này thế kia, mà phá sự hòa hiệp ở Giáo hội.

10. Cấm nghĩ quấy một vị Tỳ-kheo khác một tội gì mà không có.

11. Cấm binh vực kẻ phá sự hòa hiệp ở Giáo hội.

12. Cấm không nghiêm làm quấy ác cho kẻ khác bắt chước.

13. Cấm cưỡng lý khi làm quấy mà chẳng chịu nghe lời khuyên giải.

 

Bạch chư đại đức, tôi vừa đọc xong 13 Giới tổn hại Tăng tàn – giáng cấp, vậy chẳng hay trong các ngài có ai phạm chăng?

 

(Hỏi 3 lần, rồi tiếp…)

 

Các ngài đều được trong sạch, vì tôi thấy ai nấy đều lặng thinh.

 

 

C. 2 GIỚI KHÔNG ĐỊNH

 

1. Cấm ngồi nói chuyện với đàn bà, chỗ vắng vẻ đáng nghi ngờ.

2. Cấm ngồi nói chuyện với đàn bà, tự do chỗ chán chường.

 

(Hỏi 3 lần, tương tự…)

 

 

D. 30 GIỚI PHÁ SỰ THANH BẦN (Cấm phòng 6 bữa)

 

1. Cấm cất giữ dư chăn, áo quá 10 ngày.

2. Cấm bỏ chăn, áo ở một nơi khác, trong một đêm.

3. Cấm để dành vải quá một tháng, khi rách mất có người cúng.

4. Cấm nhận áo của một Tỳ-kheo Ni xa lạ (trừ sự đổi áo mới).

5. Cấm để Tỳ-kheo Ni xa lạ giặt nhuộm, cất giữ áo cho mình.

6. Cấm hỏi xin áo với nam nữ thí chủ (trừ khi thắt ngặt).

7. Cấm nhận nhiều chăn áo quá bộ (trừ khi thắt ngặt).

8. Cấm tự ý muốn kiểu cắt may (khi có một thí chủ định sắm cho).

9. Cấm tự ý muốn kiểu cắt may (khi có nhiều thí chủ định sắm cho).

10. Cấm nhận tiền để may áo, và hối thúc Giáo hội may liền.

11. Cấm dùng chăn áo bằng tơ, lụa, hàng (mặc dầu có pha lộn vải).

12. Cấm dùng ngọa cụ màu đen rặt không có pha lộn màu khác.

13. Cấm dùng ngọa cụ màu trắng rặt không có pha lộn màu khác.

14. Cấm chưa đúng 6 năm mà sắm thêm ngọa cụ khác.

15. Cấm lấy ngọa cụ mới che cho cái cũ làm mau hư.

16. Cấm khi viễn hành có ai cúng vải mà ôm đi xa quá 3000 thước.

17. Cấm biểu Tỳ-kheo Ni xa lạ giặt nhuộm, cất giữ vải cho mình.

18. Cấm nhận tiền bạc vàng, gởi hoặc bảo kẻ khác nhận thế.

19. Cấm buôn bán đồ quý báu.

20. Cấm buôn bán bất luận vật gì.

21. Cấm giữ thêm một cái bát, cất quá 10 ngày.

22. Cấm kiếm bát mới tốt, mặc dầu đúng năm mà cái cũ còn xài được.

23. Cấm đem chỉ cho thợ dệt xa lạ dệt áo cho mình khi có kẻ cúng.

24. Cấm ra kiểu ni cho thợ dệt, khi thí chủ dệt áo cho mình.

25. Cấm  giận hờn đòi áo lại khi đã cho người rồi.

26. Cấm để dành thuốc, đường, dầu quá 7 ngày (trừ khi đau có người cúng).

27. Cấm xin vải choàng tắm mùa mưa, trước một tháng, dùng trước 15 ngày.

28. Cấm lãnh áo trước kỳ, khi đến lệ còn hỏi nữa.

29. Cấm gởi áo nhà quen quá 6 ngày, sư ẩn cư khi về Giáo hội.

30. Cấm lấy lén một món đồ gì của Giáo hội.

 

(Hỏi 3 lần, tương tự…)

 

 

E. 90 GIỚI HÀNH PHẠT (quỳ hương)

 

1. Cấm cho rằng phải một việc sái.

2. Cấm chê đè làm cho người ta rủn chí.

3. Cấm nói hai lưỡi đâm thọc làm cho người ta giận nhau.

4. Cấm ở chung nhà với đàn bà trong một đêm.

5. Cấm ở quá hai đêm chung với người chưa thọ Giới nhà sư.

6. Cấm tụng kinh chung và một lượt với người chưa thọ Đại giới.

7. Cấm học tội một vị Tỳ-kheo khác với người chưa thọ Giới nhà sư.

8. Cấm khoe mình đắc đạo có phép thần thông với người chưa thọ Đại giới.

9. Cấm một mình thuyết pháp với đàn bà 5, 6 câu, mà không có đàn ông trí thức chứng dự.

10. Cấm đào đất, cuốc đất.

11. Cấm đốn cây phá chỗ thần ở.

12.  Cấm cãi nhiều lời làm cho người ta phiền nghịch.

13. Cấm chê bai, nói ác, xúc phạm đến vị Sư trị sự trong Giáo hội.

14. Cấm dùng đồ của chùa mà bỏ ở ngoài làm cho hư bể.

15. Cấm dùng đồ của chùa, khi đi không dẹp cất.

16. Cấm khi đi lữ hành, giành chỗ nằm của một người khác.

17. Cấm đuổi hay sai đuổi ra khỏi phòng, một Tỳ-kheo không hạp ý mình.

18. Cấm giăng mùng, lót ván để cây rớt trúng người ta.

19. Cấm lấy nước dùng mà trong ấy mình biết là có côn trùng.

20. Cấm dùng đồ nhiều quá mà lợp tịnh thất, chất nặng bậy làm sập.

21. Cấm dạy đạo, đọc Giới bổn với Tỳ-kheo Ni, không có lịnh Giáo hội sai đi.

22. Cấm thuyết pháp với Tỳ-kheo Ni, buổi chiều, tối tới sáng, mặc dầu có lịnh.

23. Cấm nói giễu vị sư đi thuyết pháp cho Tỳ-kheo Ni là cốt để ăn uống no say.

24. Cấm tặng áo cho Tỳ-kheo Ni xa lạ (trừ khi mua giùm hoặc đổi áo mới).

25. Cấm may áo cho Tỳ-kheo Ni xa lạ.

26. Cấm ngồi chung với Tỳ-kheo Ni ở một chỗ che khuất.

27. Cấm đi chung với Tỳ-kheo Ni (dầu làng này hay làng kia).

28. Cấm hẹn nhau đi chung một thuyền (trừ khi qua đò).

29. Cấm ăn cơm của thí chủ đãi, mà nhờ có Tỳ-kheo Ni nói vào.

30. Cấm đi chung với đàn bà (dầu làng này tới làng kia cũng vậy).

31. Cấm ăn đến hai buổi cơm một ngày, hai buổi hai ngày trong một nhà.

32. Cấm ăn nhiều buổi cơm ở nhiều chỗ trong một ngày (trừ cơn đau).

33. Cấm vắng mặt buổi cơm kỳ hội (trừ cơn đau, đi xa, trai Tăng tởi áo).

34. Cấm ăn no rồi mà ăn lại nữa (nhưng còn đói có thể hỏi thêm).

35. Cấm lãnh đồ ăn nhiều quá mà không chia sớt lại cho vị khác.

36. Cấm ép vị sư khác ăn no rồi mà ăn lại nữa.

37. Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ tới ngọ mai.

38. Cấm dùng và để đồ ăn vào miệng, món chẳng phải của cúng dường.

39. Cấm để dành đồ ăn cách đêm đặng khỏi đi xin.

40. Cấm hỏi đồ ăn mỹ vị (trừ cơn đau tùy món cần dùng).

41. Cấm cố ý làm cho mấy vị Tỳ-kheo khác trễ quá giờ ăn.

42. Cấm trao tay thí đồ ăn cho kẻ nam nữ phái ngoại đạo.

43. Cấm ăn rồi mà ngồi nán lại lâu trong nhà có đàn bà đẹp.

44. Cấm lãnh đồ ăn rồi mà ngồi lại chỗ kín, nhà có đàn bà đẹp.

45. Cấm ngồi gần đàn bà chỗ chán chường.

46. Cấm oán ghét, kiếm cớ làm cho một vị sư khác bơ vơ, nhịn đói.

47. Cấm lãnh để dành nhiều thuốc.

48. Cấm xem diễn binh tập lính.

49. Cấm ở chung với quân binh hai ngày (trong khi có lý cớ gì).

50. Cấm ưa thích sự tập tành ngựa voi, quân binh đấu võ.

51. Cấm uống rượu men, các thứ rượu, thuốc hút, á phiện, trầu cau.

52. Cấm tắm rửa một cách quá tự do và giỡn cợt.

53. Cấm lấy tay chân mà đánh đá người ta.

54. Cấm bất tuân và khinh dể lời quở trách cản ngăn.

55. Cấm dọa nạt làm cho một vị Tỳ-kheo khác kinh sợ.

56. Cấm tắm tới hai lần trong nửa tháng (trừ khi đau, dơ, nực).

57. Cấm vô cớ chụm lửa chỗ trống (trừ khi đau, lạnh, đêm tối).

58. Cấm giễu cợt mà giấu, hoặc xúi giấu đồ của người khác.

59. Cấm lấy lén lại đồ, áo đã cho người ta rồi.

60. Cấm mặc dùng áo chăn màu vải trắng (phải nhuộm cho xấu).

61. Cấm cố ý giết thác mạng thú vật.

62. Cấm uống nước mà mình biết là có côn trùng.

63. Cấm cố ý làm cho người ta buồn mà không khuyên giải.

64. Cấm giấu tội thô tục, chọc ghẹo, giao dâm của một Tỳ-kheo khác.

65. Cấm nhận vào hàng Tỳ-kheo kẻ nào chưa đúng 20 tuổi trọn.

66. Cấm khêu gợi sự rầy rà sau khi đã êm thuận rồi.

67. Cấm đi chung với gian nhơn (dầu làng này tới làng kia cũng vậy).

68. Cấm nói dâm dục không ngăn trở sự thành đạo đắc quả.

69. Cấm giữ tại chùa và để hầu mình, kẻ Sa-di nói sái quấy ấy.

70. Cấm giao thiệp, đưa đồ, nói chuyện với vị sư nói sái quấy ấy.

71. Cấm chối tội nói rằng không biết để đi hỏi lại.

72. Cấm nói phá rằng đọc Giới bổn là phiền hà vô ích.

73. Cấm chối tội nói rằng tại mình không thuộc Giới bổn.

74. Cấm nói chư Tăng nghị xử chẳng công bình.

75. Cấm phá khuấy làm gián đoạn buổi hội nghị (đi vắng, đi ra ngoài).

76. Cấm cản không cho thi hành điều mà Giáo hội đã quyết nghị.

77. Cấm học đi học lại chuyện cãi lẫy gây gỗ, sau khi đã êm thuận rồi.

78. Cấm giận mà đánh một vị Tỳ-kheo khác.

79. Cấm giận mà vả, vặn tay một Tỳ-kheo khác.

80. Cấm cáo gian rằng vị Tỳ-kheo khác phạm Giới Tăng tàn.

81. Cấm vào cung vua thình lình, không chờ đợi nghinh tiếp.

82. Cấm lượm, sai lượm của quấy, vật bỏ rơi (trừ khi biết chủ giữ giùm).

83. Cấm vào làng sái giờ (trừ ra có việc của Giáo hội, đúng giờ từ sáng tới ngọ).

84. Cấm ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn xinh đẹp.

85. Cấm dồn ghế, nệm, gối bằng gòn tốt.

86. Cấm dùng ống đựng kim bằng xương, sừng, ngà.

87. Cấm trải ngọa cụ choán chỗ rộng quá.

88. Cấm dùng vải giẻ nhiếu quá mà bó chỗ đau.

89. Cấm dùng chăn tắm lớn quá.

90. Cấm mặc áo rộng dài như áo của Phật.

 

(Hỏi 3 lần, tương tự…)

 

 

F. 4 GIỚI ĐẶC BIỆT (xưng tội xả đọa)

 

1. Cấm chẳng đau mà ăn nhờ đồ ăn của Tỳ-kheo Ni xa lạ.

2. Cấm chẳng từ chối, Tỳ-kheo Ni nói với thí chủ đãi cơm mình trước.

3. Cấm xin mãi một nhà làm cho người ta nghèo túng.

4. Cấm sư ẩn cư chỗ nguy hiểm, để có sự hại cho thí chủ đem cơm tới cho mình.

 

(Hỏi 3 lần, tương tự…)

 

 

G. 100 GIỚI NHỎ PHẢI HỌC (sám hối)

 

1. Cái chăn phải vận từ nịt lưng tới nửa ống chân, đừng có xăn.

2. Bộ áo ba cái phải mặc cho có thứ lớp.

3. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà xăn áo lên.

4. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà xăn áo lên.

5. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai.

6. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lật áo lên tới vai.

7. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà đội khăn, đội mũ.

8. Chẳng nên  ngồi trong nhà cư sĩ mà đội khăn, đội mũ.

9. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà vừa đi vừa chạy.

10. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ sau khi vừa đi vừa chạy.

11. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng, chống nạnh.

12. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà chắp tay sau lưng, chống nạnh.

13. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình.

14. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà lay chuyển thân mình.

15. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà múa tay.

16. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà múa tay.

17. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình.

18. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà không mặc áo che mình.

19. Chẳng nên đi vào nhà cư sĩ mà trông bên nây, bên kia.

20. Chẳng nên ngồi trong nhà cư sĩ mà trông bên nây, bên kia.

21. Chẳng nên ngồi chồm hổm trong  nhà cư sĩ.

22. Hãy điềm tĩnh khi đi vào nhà cư sĩ.

23. Hãy điềm tĩnh khi ngồi trong nhà cư sĩ.

24. Chẳng nên cười cợt khi đi vào nhà cư sĩ.

25. Chẳng nên cười cợt khi ngồi trong nhà cư sĩ.

26. Phải để ý khi lãnh cơm.

27. Khi lãnh cơm, đưa bát ra cho ngay thẳng, đừng để đổ.

28. Khi lãnh canh, đưa bát cho ngay thẳng, đừng để đổ.

29. Phải trộn cơm với đồ ăn đã lãnh.

30. Món nào xúc trước thì ăn trước.

31. Chẳng nên lựa bên này bên kia, hay giữa bát.

32. Chẳng nên hỏi canh ngon hoặc món lạ (trừ khi đau tùy món cần dùng).

33. Chẳng nên xới cơm lên che khuất đồ ăn đặng lãnh thêm nữa.

34. Chẳng nên thấy vị khác lãnh đồ ăn mà sanh lòng thèm.

35. Lãnh cơm, đồ ăn đủ rồi, phủ cái bát lại, vừa ăn vừa suy nghĩ.

36. Chẳng nên ăn lớn miếng.

37. Chẳng nên há miệng lớn mà đút đồ ăn.

38. Chẳng nên nói chuyện khi ngậm một miếng đồ ăn.

39.  Chẳng nên lấy cơm vò viên mà thảy vào miệng.

40. Chẳng nên ăn trám vàm đến đỗi rớt ra.

41. Chẳng nên đưa đồ ăn từ má bên này qua má bên kia.

42. Chẳng nên nhai lớn tiếng.

43. Chẳng nên nút mạnh trong khi ăn.

44. Chẳng nên lấy lưỡi liếm.

45. Chẳng nên quơ tay trong khi ăn.

46. Chẳng nên lấy tay lượm cơm rớt mà bỏ vào miệng.

47. Chẳng nên cầm đến bình uống nước mà chẳng rửa tay.

48. Chẳng nên tạt nước rửa bát ra sân của thí chủ.

49. Chẳng nên đại, tiểu, hỉ mũi, khạc nhổ trên rau cỏ (trừ khi bịnh).

50. Chẳng nên đại, tiểu, hỉ mũi, khạc nhổ trên nước (trừ khi bịnh).

51. Chẳng nên đứng mà đại tiểu (trừ khi bịnh).

52. Chẳng nên ở và ngủ trong chỗ thờ Phật (trừ khi canh giữ).

53. Chẳng nên cất đồ vật tại chỗ thờ Phật (trừ khi bị cướp).

54. Chẳng nên mang dép vào chỗ thờ Phật.

55. Chẳng nên xách dép vào chỗ thờ Phật.

56. Chẳng nên mang dép đi chung quanh chỗ thờ Phật.

57. Chẳng nên mang giày vào chỗ thờ Phật.

58. Chẳng nên xách giày vào chỗ thờ Phật.

59. Chẳng nên ngồi ăn dưới chỗ thờ Phật mà bỏ đồ dơ thúi.

60. Chẳng nên khiêng xác chết đi dưới chỗ thờ Phật.

61. Chẳng nên chônxác chết dưới chỗ thờ Phật.

62. Chẳng nên thiêu xác chết ngay chỗ thờ Phật.

63. Chẳng nên thiêu xác chết chỗ nào mùi hôi thúi bay tới chỗ thờ Phật.

64. Chẳng nên thiêu xác chết tại chỗ thờ Phật.

65. Chẳng nên đi dưới chỗ thờ Phật, mang đồ của người chết.

66. Chẳng nên đại, tiểu tại chỗ thờ Phật.

67. Chẳng nên đi nhà tiêu mang theo tượng Phật.

68. Chẳng nên đại, tiểu chỗ nào mùi hôi thúi bay tới chỗ thờ Phật.

69. Chẳng nên đại, tiểu ngay phía chỗ thờ Phật.

70. Chẳng nên xỉa răng, súc miệng dưới chỗ thờ Phật.

71. Chẳng nên tới trước chỗ thờ Phật mà xỉa răng, súc miệng.

72. Chẳng nên đứng bốn phía chỗ thờ Phật mà xỉa răng, súc miệng.

73. Chẳng nên ở tại chỗ thờ Phật mà hỉ mũi, khạc nhổ.

74. Chẳng nên đứng trước chỗ thờ Phật mà hỉ mũi, khạc nhổ.

75. Chẳng nên đứng bốn phía chỗ thờ Phật mà hỉ mũi, khạc nhổ.

76. Chẳng nên ngồi đưa  chân ngay chỗ thờ Phật.

77. Chẳng nên ở, đứng trên cao hơn chỗ thờ Phật.

78. Chẳng nên nắm tay một người khác mà đi dạo.

79. Chẳng nên leo cây cao khỏi đầu (trừ khi có việc).

80. Chẳng nên bỏ bát vào bao mà quảy lên vai: chỗ đầu cây gậy.

81. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: lật áo.

82. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: quần áo lên cổ.

83. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: khỏa đầu.

84. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: che đầu.

85. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: chắp tay sau lưng, chống nạnh.

86. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: đi guốc.

87. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: đi dép.

88. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cưỡi ngựa, đi kiệu.

89. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: ngồi mà mình đứng.

90. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: nằm mà mình ngồi.

91. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: ngồi chỗ tốt mà mình ngồi chỗ xấu.

92. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp.

93. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: đi trước mà mình đi sau.

94. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: đi trên mà mình đi dưới.

95. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: đứng giữa mà mình đứng bên.

96. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cầm gậy.

97. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cầm gươm.

98. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cầm giáo.

99. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cầm dao.

100. Chẳng nên vị tình thuyết pháp cho kẻ vô lễ: cầm dù.

 

(Hỏi 3 lần, tương tự…)

 

 

H. BẢY GIỚI GIẢI HÒA DIỆT TRÁNH

 

(Khi có việc xảy ra xung đột, bất bình thì xử cho êm đi)

 

1. Dùng cách tự thuận.

2. Hoặc nói quyết rằng quên.

3. Hoặc mình không biết, không cố ý.

4. Hoặc xin lỗi thành thật mình đã lỡ phạm.

5. Hoặc chuyển lên Giáo hội xem xét cho.

6. Hoặc nhờ thầy quảng đại quyết định cho.

7. Hoặc cùng nhau niệm Phật bỏ qua, khỏa lấp như cỏ mới mọc.

 

 

Hai trăm năm chục giới, bạch chư Đại đức, tôi đã đọc để quý Ngài nghe, đoạn vô đầu,

– Bốn Đại giới

– Mười ba Giới tổn hại Tăng tàn

– Hai Giới không định

– Ba chục Giới phá sự thanh bần

– Chín chục Giới hành phạt

– Bốn Giới đặc biệt

– Một trăm Giới nhỏ phải học

– Bảy Giới giải hòa

 

Cộng là hai trăm năm chục giới.

 

Tất cả bao nhiêu đó, mà đức Phật Tổ dạy chúng ta phải hội họp mỗi kỳ nửa tháng, đặng nghe đọc một lần. Vậy cuộc hội  họp này đến đây thì bế mạc. Nhưng trước khi giải tán, tất cả Giáo hội đều đọc kệ chung với nhau, đại khái như dưới đây:

 

1- Đức Phật Tỳ-bà-thi có dạy rằng: “Bền chịu với các sự nhẫn nhục, ấy là giới hạnh đầu tiên, mà chư Phật hằng khuyên ta. Kẻ đã xuất gia bỏ thế, mà còn phiền giận, thật không đáng với tiếng Tỳ-kheo.”

 

2- Đức Phật Thích-khí có dạy rằng: “Người ta có mắt lanh, bao giờ cũng vượt qua khỏi hố sâu thẳm, cũng như thế, bậc Phật Thánh thoát khỏi các nạn khổ.”

 

3- Đức Phật Tỳ-xá có dạy rằng: “Tránh nói hành và tật đố, giữ giới hạnh, vừa lòng với sự đủ dùng về đồ ăn uống, bao giờ cũng thỏa thích trong tịnh thất thanh vắng của mình, bền chí về bổn nguyện và cố tiến thủ, ấy là các lý cốt yếu mà chư Phật đã ban truyền.”

 

4- Đức Phật Ca-la-tôn-đại có dạy rằng: “Quanh quẩn trên hoa, con ong chỉ lấy mật trong hoa mà thôi, chớ không phá màu hoa và mùi hoa. Cũng như thế, chư Tỳ-kheo ở chung với Giáo hội, chớ nên làm nặng lòng ai hết, chớ xem coi họ có làm hoặc không làm, mà phải lo lấy mình, xét coi đạo hạnh của mình có vẹn toàn hay không.”

 

5- Đức Phật Câu-na-hàm Mưu-ni có dạy rằng: “Chớ để cái tâm lạc bậy, hãy siêng học các giới luật của Phật Thánh, như vậy người ta sẽ xa lánh mọi sự buồn, và tấn tới Niết-bàn.”

 

6- Đức Phật Ca-diếp có dạy rằng: “Chớ làm điều gì ác, phải làm các điều lành, cái sở ý của ngươi phải cho trong sạch luôn luôn, chư Phật đều dạy như vậy.”

 

7- Đức Phật Thích-ca Mưu-ni có dạy rằng: “Hãy giữ lời nói của ngươi, hãy làm cho tâm lý của ngươi trở nên thanh bạch, đừng làm một việc gì sái quấy, giữ ba điều ấy là theo chánh đạo, đạo của chư Phật đó.”

 

8- Các nhà hiền đức giữ giới có ba điều an lạc lợi ích: một là danh tiếng thơm lành, hai là được cúng dường, ba là sanh lên cõi trên sau khi thác, nếu chưa đắc quả A-la-hán.

 

9- Hãy xem qua trong Giáo hội, coi mấy nhà hiền đức và thành tín, giữ giới luật thế nào? Giữ giới và sống trong sạch là sự phát sanh trí huệ, là nền tảng mọi việc hay khác.

 

10- Noi theo lời dạy của chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai, người ta giải thoát khỏi mọi sự buồn thảm, mà chư Phật hằng khuyên người phải trân trọng giữ giới. Bảy đức Phật trên kia đều bảo rằng: Sự giữ giới gỡ cho mình ra khỏi các việc trói buộc, và đưa mình lên đến nơi cùng tột là Niết-bàn, bấy giờ sẽ dứt hết các cuộc phiền não.

 

11- Chúng ta phải noi theo lời dạy của chư Phật, chư Tiên, lời khuyên của Thánh hiền, gương lành của mấy vị đệ tử đích đáng, để nong nả tới nơi an lạc của Niết-bàn.

 

12- Trước khi tịch khỏi cõi thế mà vào Niết-bàn, đức Phật Tổ có khuyến khích chư Tăng mấy lời này: “Khi ta từ giã, chư đệ tử chớ nói rằng ta nhập Niết-bàn là ta hết bảo hộ đâu. Không, ta để luật lại, nó sẽ ủng hộ cho. Hãy coi ta là thầy mãi, bao giờ luật của ta còn trì giữ, thì đạo Phật vẫn còn tỏ rõ và thạnh hành. Nếu chư đệ tử giữ giới mà làm cho đạo sáng và thạnh, thì sẽ hưởng Niết-bàn; còn để cho đạo tắt mất, thì trần thế sẽ bị chôn trở vào nơi hắc ám, cũng như lúc mặt trời lặn buổi chiều. Hãy giữ giới cho kỹ, hãy hội họp lại mà đọc Giới bổn, theo như ta đã dạy, ráng bảo tồn nó, vì nó giúp ích cho chúng sanh, giúp cho tiến theo nẻo Phật.”.

 

Kính lạy Ta-bà thế giới Thích-ca Mưu-ni Phật. (3 lạy)

 

 

Giới bổn này tất cả khất sĩ đều dùng được hết.

 

Luật Tăng đồ nhà Phật này của phái Đàm Vô Đức bộ, do Đại sư Đàm Đế dịch năm 254 sau Dương lịch.

 

 

-------------------------------------