NỐI TRUYỀN THÍCH-CA CHÁNH PHÁP, ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM.

Đạo phật khất sĩ / Tư tưởng - Văn hóa / Thi hóa tiểu sử Tổ Sư Minh Đăng Quang

, Thứ Hai 2011-09-16

 

 

 

 

MINH thiên huệ nhật xuất Đông phương

ĐĂNG chí cao sơn triệu kiết tường

QUANG chiếu thế âm hàm vạn vật

Hiện lai ẩn khứ chuyển luân vương !

 

(pho tượng Tổ sư đẹp nhất)

 

 

 

Thi hóa tiểu sử

Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang

 

 

Thi sĩ Trụ Vũ thi hóa,

dựa theo tác phẩm Minh Đăng Quang Pháp Giáo – xuất bản năm 1962 của soạn giả Hàn Ôn.

 

 

THIỀN HOA KHÁNH ĐẢN

 

Đất Tiên nay nở mạch rồng

Minh Đăng nay tỏ rạng hồng phương Nam

Giữa vùng Tiền, Hậu – Trung Giang

Sóng thiêng chào đấng siêu phàm đản sinh.

Sao Phòng giáng hiện anh linh

Làng Phú Hậu, quận Tam Bình – Vĩnh Long

Trời tháng chín lộng Thu phong

Đêm hăm sáu, Đạo trổ bông Ưu-đàm

NGUYỄN THÀNH ĐẠT, tính danh vàng

LÝ HOÀN là tự (Lý... Hoàn... nguyên... chăng?)

Nhân sinh, tiếng đã gọi rằng...

Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thiên chân

Nguyễn Tồn Hiếu là phụ thân

Phạm Thị Nhàn ấy là thân mẫu người.

Thánh thai sẵn một năm trời

Hà nhi thánh thể ra đời... quang minh!

Nhớ lời trong Pháp Hoa kinh

Lại thêm nảy mối tâm thành ngưỡng chiêm

Ngời ngời tướng hảo trang nghiêm

Nghe dư âm vọng tam thiên Phật-Đà.

 

 

MẸ HIỀN VĨNH BIỆT

 

Nghiệp duyên có phải chăng là?

Hay là diệu lý của tòa Như Lai?

Sinh con ngày một ngày hai

Gót hương mẹ đã sớm rời dương gian.

Hoa nao nở lại không tàn?

Nguyệt nao đầy lại... tiếng đàn không vơi?

Mẹ băm hai tuổi thọ đời

Xa con chín tháng... tao nôi lặng lờ...

Một nghìn chín trăm hai tư (1924)

Là năm tử biệt, mẹ từ giã con!

 

 

SEN THIÊNG HÀM TIẾU

 

Thế rồi... ngày mỗi lớn khôn,

Bao nhiêu tháng, bấy nhiêu hồn nguyệt viên

Tuổi nôi tròn bóng trăng lên

Tâm linh mỗi tuổi một thêm trăng tròn!

Gió lùa mây trắng qua non

Biển xao sóng biếc quanh hòn cù lao.

Chú hài nhi của năm nao

Giờ lên bảy tuổi, trái đào phất phơ

Nếp nhà, dòng dõi hương thư

Cụ ông vốn bực văn từ danh gia,

Giã từ nội cỏ đồng hoa

Trẻ thơ cắp sách vào ra học đường.

Kiếp xưa nguyệt đã tròn gương

Kiếp nay nhất dĩ tỏ tường quán chi.

Thông minh, hiếu thuận, nhu mì

Kinh xưa, sách mới, có gì chẳng thông.

Nhớ câu: "Hòa nhi bất đồng"

Lại câu: “Gần mực…" một lòng quy y

Chọn con đường tốt mà đi

Những quân bạc ác nguyện thì tránh xa.

Phương Đông ánh nguyệt chan hòa

Cửu Long hàm tiếu một tòa sen thiêng!

Thủy triều xuống, thủy triều lên

Niên linh thoắt đã tròn thêm bảy kỳ.

Năm mười bốn tuổi đi thi

Đỗ bằng Yếu Lược (thuận tùy hiếu tâm…)

Tấc lòng tưởng bước thanh vân,

Muốn cho con trẻ dự phần công danh

Cụ ông ra sức dỗ dành

Mong con tiếp tục học hành, mai sau...

Nhưng cơ thiên định nhiệm mầu

Pháp âm vi diệu từ đâu vọng lời...

Lắng nghe chim hót thảnh thơi

Thiếu niên chợt thấy cung trời mở ra...

Thôi thì nghĩa Mẹ ơn Cha

Thôi thì tục đế Ta-bà, từ nay...

Cúi đầu lạy, chắp hai tay

Kính xin thân phụ tỏ bày lòng con

Rằng: công cha núi Thái Sơn

Rằng: nghĩa mẹ nước trong nguồn chảy ra,

Nhưng con đã nguyện Di Đà

Kiếp này xin được xuất gia tu hành.

Than ôi, cốt nhục thâm tình

Cụ ông khôn để con mình sinh ly!...

 

 

XUẤT GIA CẦU ĐẠO

 

Thôi thì thôi, thế thôi thì

Vẹn nguyền xin chịu lỗi nghì với cha.

Thiếu niên ngày nọ lìa nhà

Vượt biên giới Việt – Miên xa dặm ngàn

"Lên non tìm động hoa vàng..."

Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành,

Cửa chùa có bậc tinh anh

Đã thông phép Thánh lại rành bùa Tiên,

Gốc người Việt, tính danh Miên

Cùng ai cũng có chút duyên sư đồ.

Kể từ vào cửa Không, Vô

Vỡ lòng lấy NHẪN mà tu bước đầu,

Nắng sương công quả dãi dầu

Đất đào, củi bửa, giếng sâu, sông dài...

Từ bi là gốc Như Lai

Cảm thương thân phận những ai đọa đày,

Bao nhiêu của cải sư thầy

Trò đem ban phát một tay sạch làu.

(Không kia có thật không đâu

Không này mới thật làu làu là không).

 

 

TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG LẬP GIA THẤT

 

Một xe trong cõi hồng trần

Nghĩ đây cõi tạm, nương thân ích gì

Thôi thì hát khúc gia quy

Quẩy minh nguyệt, nhẹ gót về cố hương.

Cha già mái tóc điểm sương

Mẹ xưa, dưới mộ, chút hương linh này!

Thôi thì theo "Cái xưa nay"

Lập gia thất để yên mây chín tầng.

Nghĩa ân vành vạnh một vầng

Có nàng thục nữ khuê trung dịu dàng

Cảm ơn cứu tử ngàn vàng

Nguyện cùng xướng họa cung đàn phu thê.

Phương danh nàng là KIM HUÊ

Quê vùng Chợ Lớn, vẹn bề công dung.

(Gẫm trong trời đất vô cùng

Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài

Hay là Thánh ý Như Lai

Muốn cho ôn lại trọn bài đau thương?)

Đau thương là tính vô thường

Vô thường là tính đoạn trường xưa nay!

Ánh Xuân gọi biển là mây,

Gió Thu gọi áng mây này làm mưa…

Mười hai vòng kết nhân thừa

Cánh hoa Tứ đại nở đùa sắc hương!

...Đã chen trong cõi thương trường

Tâm linh vẫn giữ vẹn gương trong lành,

Như sen kia nở bùn tanh

Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh, vẫn là...

Trăm năm trong cõi người ta

Đã duyên chồng vợ ắt là... âm dương

Một con nối dõi tông đường

KIM LIÊN phận gái (sen vàng đó chăng?)

Sinh con chưa trọn tuần trăng

KIM HUÊ đã vội... sao băng chân trời...

Biển Đông dù có bao khơi

Cũng khôn sánh được lệ người quả phu

Than ôi, tam giới mịt mù

Biết tìm đâu nhỉ cánh Thu tuyệt vời?

Kim Huê, ảnh của tình ơi!

Hoa rơi, hỏi ảnh sao phơi được cành?

Tình hoa, hoa ảnh, ảnh tình

Chẳng qua mộng huyễn, như mình với ta!

Thôi thì thôi, ý Ta-bà

Thôi thì thôi, nghĩa Ta-bà đó thôi!...

 

 

KIM LIÊN LÌA ĐỜI

 

Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại... ngậm ngùi nuôi con,

Hai năm ruột héo gan mòn

Kim Liên thắm thoát tuổi tròn ba năm.

Vẫn là thiên lý đây chăng,

Kim Liên bóng mộng mùa trăng hoa vàng

Phút giây cũng biệt trần gian,

Thế là thôi, giữa nhân hoàn bao la

Giờ đây còn một mình ta

Với vô biên cả một tòa thương đau,

"Khi tựa gối, khi cúi đầu

Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày..."

Gốc Ba-la-mật là đây:

Chiếu cho rõ, Kiến cho ngay, vô thường…

 

 

XUẤT GIA CẦU ĐẠO

 

Vó câu in dấu đoạn trường

Quang âm dần tỏ soi đường... Quan Âm

Ái hà trôi nổi phù vân

Một tay dong cánh buồm tâm vượt dòng.

(Ấy ai gan thép chí đồng

Lửa thiêng tam-muội cháy hồng tim ta!)

Siêu nhiên quyết vượt ái hà

Một đi, lìa cửa lìa nhà lên non…

"Gió năm non thổi lòn hang dế..."

Tưởng công thầy Đạo đế tìm soi

Kiết già trên đỉnh xanh khơi

Quanh đầu hạnh, tỏa ngời ngời triêu dương

Chân tâm chiếu kiến tỏ tường

Bản lai diện mục sáng gương trăng Rằm,

Biển vàng sóng gợn lăn tăn

Thuyền ngư phủ bập bùng trăng lửa chài…

 

 

CHỨNG QUẢ BỒ-ĐỀ

 

Hải âu tung cánh thiên nhai

Chân tâm tung cánh vượt ngoài thiên không,

Đất thiêng rung động bảy lần

Biển thiêng rung động bảy tầng sóng thiêng,

Không sông, lại cũng không thuyền

Không bờ vui, lại biển phiền cũng không

Lấy gì thủy? Lấy gì chung?

Đã không sừng thỏ, lại không lông rùa

Không ta thì lấy chi tu?

Không tu không chứng, đạo Từ mãn khai

Mãn khai vô thượng liên đài

Trang nghiêm thị hiện Như Lai tọa thiền!

 

 

VIẾNG, LỄ THUNG HUYÊN

 

Một chiều trước cổng gia tiên

Bỗng dưng hiện một thanh niên rỡ ràng,

Trang nghiêm trong chiếc y vàng

Taycầm bát đất hào quang tỏa ngời,

Rằng: "Nay tôi chứng đạo rồi!”

Tam thiên đồng vọng tiếng lời Chơn như…

Thăm Nghiêm xong, lại lễ Từ

Thời gian hội ngộ cũng vừa đôi hôm.

Đoạn, y nguyền Chuyển luân vương

Lại quay về núi Trà-Lơn mây ngàn...

Ai lên non ẩn động vàng,

Người lên non để khai đàng núi xanh.

Thất Sơn bảy ngọn núi lành

Non linh tiếp khí thượng thanh diệu vời

Công xòe, phượng gáy thảnh thơi

Quả nơi phương tiện cho người tu tâm.

Một chiều có một khách nhân

Mến non, yêu đạo, gót chân băng ngàn

Gặp Người pháp tướng nghiêm trang

Tọa thiền dưới bóng bình an Bồ-đề,

Hoát nhiên sinh dạ kính vì

Rước người xuống núi trụ trì già-lam.

Tự rày đăng tỏa minh quang

Chốn Linh Bửu Tự, pháp đàn khai hoa,

Thiệu long thánh chủng Phật Đà

Giới nghi, Luật, Luận, tinh ba mở nguồn...

Mừng thay, quê vẫn còn hương

Mừng thay, hương tỏa mười phương nhân thừa

Kế truyền y bát nghìn xưa

Thiên gia phạn, vạn lý du – bóng hình...

Đời nay truyền đạo bằng Kinh

Phật xưa truyền đạo bằng hình bóng Như...

Tam thiên nữa cũng là hư

Pháp âm nữa cũng là dư âm thừa.

Còn đây, thường trụ chơn như

Một vừng viên nguyệt trên tờ Tâm Kinh,

Minh Đăng dõi bóng an bình

Bình an như cõi Vô sinh nhiệm mầu!

Dù nương thân mái chùa nâu

Vẫn vào ra chốn rừng sâu tham thiền

Gió to, cây cả vẫn bền

Giới nghi vẫn giữ trọn niềm thanh vân.

Qua năm bốn sáu (1946) xuất thần

Gặp Di Đà Phật thọ tâm ấn truyền.

Từ ngày thọ ký bề trên

MINH ĐĂNG QUANG mới thật nên danh người.

Đèn tâm soi tỏ nghìn nơi

Mười phương Phật, chín phương trời long lanh!...

“ A Di Đà Phật oai linh

Khiến tôi giải khổ vô minh kiếp này!”

 

 

Sông yêu nghìn thước nước

Bể khổ muôn sóng tà

Luân hồi muốn thoát khỏi

Mau niệm chữ Di Đà!...

 

 

THÀNH LẬP GIÁO HỘI

 

Một cành mà nở trăm hoa

Bóng Y Bát đẹp quê ta tự rày,

Chân truyền Khất Sĩ là đây

Bóng xưa với lại Hình này dặm không…

Đã không, không tới tận cùng

Nhất Y, nhất Bát dạo cùng nước non.

Đã không nhà cửa vợ con,

Lại không vướng bận vuông tròn thấp cao,

Đầy vơi trong đục sá nào,

Hải triều âm vọng ngọt ngào Tâm Kinh!

Bờ ao, vách miếu, mái đình

Sen thiêng thị hiện anh linh nhụy vàng.

Hương lừng khắp cõi dân gian

Xóm thôn dậy Pháp âm tràn sóng vui.

Như hướng dương theo mặt trời

Một người đi, cả vạn người theo chân!

Nền móng Đạo đắp xây lần

Tăng-già Khất Sĩ truyền chân Phật thừa.

 

 

ĐƯA ĐẠO VỀ THÀNH

 

Sài Gòn hoa lệ từ xưa

Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàn

Một ngày kia, dưới nắng vàng

Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn Du Tăng

Dân thành thị những băn khoăn:

Họ là ai? Xin thưa rằng: Họ đây

Là môn đệ của Đức Thầy

MINH ĐĂNG QUANG - Chiếu tự rày mười phương

Sáng ơi ngọn đuốc chân thường

Đèn khơi nhật nguyệt, đuốc tường nhân duyên

Pháp luân chuyển, Hải triều lên

Đưa nhân loại vượt tam thiên diệu vời…

 

 

PHÁP TỎA MƯỜI PHƯƠNG

 

Đạo mầu bén rễ nơi nơi

Phú Lâm, Chợ Lớn, sen tươi một miền

Đình Cây Gõ, tự Kỳ Viên

Kỉnh dâng lên đức tôn nghiêm trụ trì,

Mùa thuyết pháp, hội quy y

Bốn phương thiện tín trẩy về dâng hương…

Sử mầu lần giở từng trương

Hạnh tu Khất Sĩ du phương Ta-bà

Khắp vùng non biển quê ta

Đâu đâu chẳng hiện bóng hoa Ưu-đàm,

Sen nghìn cánh tỏa hào quang

Tăng nghìn vị tỏa thơm đàng quê linh…

Suối mầu khởi tự non xanh

Chảy lai láng biển Thái Bình, trăm sông

Từ miền Nam đổ về Trung

Hương Giang vọng tiếng Cửu Long gọi mời,

Bây giờ tịnh xá trăm ngôi

Như trăm nhánh ngọc tươi chồi Vô ưu!

 

 

VU-LAN THẮNG HỘI

 

Ơn cha nghĩa mẹ trên đầu,

Biết bao ý nghĩa nhiệm mầu Vu Lan.

Trời tháng bảy, giọt mưa chan

Tưởng như hiếu tử hàng hàng lệ rơi.

Y theo tục lệ bao đời

Chư Tăng khất sĩ nơi nơi họp về.

Kỳ Viên nào thuở xưa kia

Mà nay biếc ngọc Bồ-đề lao xao

Từ nơi bể thẳm, rừng cao

Lễ thiêng Tự Tứ ngọt ngào đoàn viên.

Nghĩa này, hiếu đạo vi tiên

Nghĩa này, chung họp chú nguyền độ nhân

Nghĩa này, vi diệu thậm thâm

Mùa sen nở, thách mưa dầm gió may

Thậm thâm vi diệu nghĩa này

Vu-lan Tự Tứ là ngày đổi y

Tuổi đời thêm một, vân vi

Song song, tuổi đạo thêm kỳ diệu hương…

Đầu tiên lễ Vu Lan Bồn

Cử hành nơi chốn đạo trường Kỳ Viên

Một nghìn bốn tám (1948) dương niên,

Năm sau, lễ lại dời miền Vĩnh Long.

Vu Lan, hội mở khắp cùng

Từ miền Tây tới miền Đông rực vàng

Năm tư (1954), năm của đoạn tràng

Tôn Sư vắng bóng, Minh Quang nhạt ngời…

 

 

TÔN SƯ VẮNG BÓNG

 

Năm Giáp Ngọ, đầu tháng Hai

Vĩnh Long hoa nở đón người vân du,

Khi qua thuyền tới Cần Thơ

Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ “Cấp trên”,

Một xe vào cõi U huyền

Ai hay địa ngục giữa miền dương gian…

Tuồng đời hợp hợp tan tan

Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa,

Đêm Xuân tủi bóng trăng tà,

Đêm Thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu…

Bây giờ phượng ở nơi đâu?

Bóng chim, tăm cá, biển sâu sông dài…

Đã đành thường trụ Như Lai

Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không

Đã đành gương chiếu hoa lồng.

Đã đành đành vậy, mà lòng vẫn đau.

Bây giờ phượng ở nơi đâu

Để cho mây trắng một màu mênh mang…

 

 

MINH ĐĂNG BẤT DIỆT

 

Hỡi ai trong cõi nhân hoàn

Tự mình hãy thắp đuốc vàng mà đi.

Lời xưa Phật dạy còn ghi

Tâm đăng khơi tỏ, vậy thì Minh Đăng!

Thanh vân hiện cánh chim bằng

Nương theo Đại Thế Chí băng dặm Trời,

Đức Thầy dẫu vắng tăm hơi

Gương vàng ánh ngọc vẫn ngời Trung Tâm,

Dưới trên, Giáo hội một lòng

Cùng chư thiện tín kết vòng minh châu

Một trăm lẻ tám hạt mầu

Kết bằng sợi Pháp tròn xâu Bồ-đề.

Thời gian gió thoảng hoa lê

Hai mươi năm lẻ, sinh ly nghẹn ngào

Non cao ai đắp nên cao

Sông sâu ai bới ai đào mà sâu?”…

Tung hô Phật Pháp nhiệm mầu

Vai mang nhật nguyệt Á châu lên đàng

Phất phơ muôn dặm y vàng

Đương kim Giáo Hội mở trang Đại thừa

Noi gương hùng lực ngàn xưa

Thiên nhiên cao phất ngọn cờ Siêu nhiên.

 

 

PHÁP VIỆN LÊN NGÔI

 

Cõi Nam kết tụ nhân hiền,

Minh Đăng Quang Pháp Viện nên công trình,

Trước nhờ Phật Tổ oai linh

Sau nhờ có Phật Tăng mình từ bi.

Non cao, bể rộng, ô kìa:

Đàn-na thí chủ sớm khuya dựng bồi.

Mai này Pháp Viện lên ngôi

Nam Phương phúc địa nẩy chồi muôn bông!

 

 

Rằm tháng Giêng, PL. 2517

     (Vi tính: Tâm Duyên)

 

-------------------------------------------------------

Các bài liên quan