Đạo phật khất sĩ / Tư tưởng - Văn hóa / Thi hóa tiểu sử Tổ Sư Minh Đăng Quang
MINH thiên huệ nhật xuất Đông phương
ĐĂNG chí cao sơn triệu kiết tường
QUANG chiếu thế âm hàm vạn vật
Hiện lai ẩn khứ chuyển luân vương !
(pho tượng Tổ sư đẹp nhất)
Thi hóa tiểu sử
Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang
Thi sĩ Trụ Vũ thi hóa,
dựa theo tác phẩm Minh Đăng Quang Pháp Giáo – xuất bản năm 1962 của soạn giả Hàn Ôn.
THIỀN HOA KHÁNH ĐẢN
Đất Tiên nay nở mạch rồng
Minh Đăng nay tỏ rạng hồng phương Nam
Giữa vùng Tiền, Hậu – Trung Giang
Sóng thiêng chào đấng siêu phàm đản sinh.
Sao Phòng giáng hiện anh linh
Làng Phú Hậu, quận Tam Bình – Vĩnh Long
Trời tháng chín lộng Thu phong
Đêm hăm sáu, Đạo trổ bông Ưu-đàm
NGUYỄN THÀNH ĐẠT, tính danh vàng
LÝ HOÀN là tự (Lý... Hoàn... nguyên... chăng?)
Nhân sinh, tiếng đã gọi rằng...
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thiên chân
Nguyễn Tồn Hiếu là phụ thân
Phạm Thị Nhàn ấy là thân mẫu người.
Thánh thai sẵn một năm trời
Hà nhi thánh thể ra đời... quang minh!
Nhớ lời trong Pháp Hoa kinh
Lại thêm nảy mối tâm thành ngưỡng chiêm
Ngời ngời tướng hảo trang nghiêm
Nghe dư âm vọng tam thiên Phật-Đà.
MẸ HIỀN VĨNH BIỆT
Nghiệp duyên có phải chăng là?
Hay là diệu lý của tòa Như Lai?
Sinh con ngày một ngày hai
Gót hương mẹ đã sớm rời dương gian.
Hoa nao nở lại không tàn?
Nguyệt nao đầy lại... tiếng đàn không vơi?
Mẹ băm hai tuổi thọ đời
Xa con chín tháng... tao nôi lặng lờ...
Một nghìn chín trăm hai tư (1924)
Là năm tử biệt, mẹ từ giã con!
SEN THIÊNG HÀM TIẾU
Thế rồi... ngày mỗi lớn khôn,
Bao nhiêu tháng, bấy nhiêu hồn nguyệt viên
Tuổi nôi tròn bóng trăng lên
Tâm linh mỗi tuổi một thêm trăng tròn!
Gió lùa mây trắng qua non
Biển xao sóng biếc quanh hòn cù lao.
Chú hài nhi của năm nao
Giờ lên bảy tuổi, trái đào phất phơ
Nếp nhà, dòng dõi hương thư
Cụ ông vốn bực văn từ danh gia,
Giã từ nội cỏ đồng hoa
Trẻ thơ cắp sách vào ra học đường.
Kiếp xưa nguyệt đã tròn gương
Kiếp nay nhất dĩ tỏ tường quán chi.
Thông minh, hiếu thuận, nhu mì
Kinh xưa, sách mới, có gì chẳng thông.
Nhớ câu: "Hòa nhi bất đồng"
Lại câu: “Gần mực…" một lòng quy y
Chọn con đường tốt mà đi
Những quân bạc ác nguyện thì tránh xa.
Phương Đông ánh nguyệt chan hòa
Cửu Long hàm tiếu một tòa sen thiêng!
Thủy triều xuống, thủy triều lên
Niên linh thoắt đã tròn thêm bảy kỳ.
Năm mười bốn tuổi đi thi
Đỗ bằng Yếu Lược (thuận tùy hiếu tâm…)
Tấc lòng tưởng bước thanh vân,
Muốn cho con trẻ dự phần công danh
Cụ ông ra sức dỗ dành
Mong con tiếp tục học hành, mai sau...
Nhưng cơ thiên định nhiệm mầu
Pháp âm vi diệu từ đâu vọng lời...
Lắng nghe chim hót thảnh thơi
Thiếu niên chợt thấy cung trời mở ra...
Thôi thì nghĩa Mẹ ơn Cha
Thôi thì tục đế Ta-bà, từ nay...
Cúi đầu lạy, chắp hai tay
Kính xin thân phụ tỏ bày lòng con
Rằng: công cha núi Thái Sơn
Rằng: nghĩa mẹ nước trong nguồn chảy ra,
Nhưng con đã nguyện Di Đà
Kiếp này xin được xuất gia tu hành.
Than ôi, cốt nhục thâm tình
Cụ ông khôn để con mình sinh ly!...
XUẤT GIA CẦU ĐẠO
Thôi thì thôi, thế thôi thì
Vẹn nguyền xin chịu lỗi nghì với cha.
Thiếu niên ngày nọ lìa nhà
Vượt biên giới Việt – Miên xa dặm ngàn
"Lên non tìm động hoa vàng..."
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành,
Cửa chùa có bậc tinh anh
Đã thông phép Thánh lại rành bùa Tiên,
Gốc người Việt, tính danh Miên
Cùng ai cũng có chút duyên sư đồ.
Kể từ vào cửa Không, Vô
Vỡ lòng lấy NHẪN mà tu bước đầu,
Nắng sương công quả dãi dầu
Đất đào, củi bửa, giếng sâu, sông dài...
Từ bi là gốc Như Lai
Cảm thương thân phận những ai đọa đày,
Bao nhiêu của cải sư thầy
Trò đem ban phát một tay sạch làu.
(Không kia có thật không đâu
Không này mới thật làu làu là không).
TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG LẬP GIA THẤT
Một xe trong cõi hồng trần
Nghĩ đây cõi tạm, nương thân ích gì
Thôi thì hát khúc gia quy
Quẩy minh nguyệt, nhẹ gót về cố hương.
Cha già mái tóc điểm sương
Mẹ xưa, dưới mộ, chút hương linh này!
Thôi thì theo "Cái xưa nay"
Lập gia thất để yên mây chín tầng.
Nghĩa ân vành vạnh một vầng
Có nàng thục nữ khuê trung dịu dàng
Cảm ơn cứu tử ngàn vàng
Nguyện cùng xướng họa cung đàn phu thê.
Phương danh nàng là KIM HUÊ
Quê vùng Chợ Lớn, vẹn bề công dung.
(Gẫm trong trời đất vô cùng
Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài
Hay là Thánh ý Như Lai
Muốn cho ôn lại trọn bài đau thương?)
Đau thương là tính vô thường
Vô thường là tính đoạn trường xưa nay!
Ánh Xuân gọi biển là mây,
Gió Thu gọi áng mây này làm mưa…
Mười hai vòng kết nhân thừa
Cánh hoa Tứ đại nở đùa sắc hương!
...Đã chen trong cõi thương trường
Tâm linh vẫn giữ vẹn gương trong lành,
Như sen kia nở bùn tanh
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh, vẫn là...
Trăm năm trong cõi người ta
Đã duyên chồng vợ ắt là... âm dương
Một con nối dõi tông đường
KIM LIÊN phận gái (sen vàng đó chăng?)
Sinh con chưa trọn tuần trăng
KIM HUÊ đã vội... sao băng chân trời...
Biển Đông dù có bao khơi
Cũng khôn sánh được lệ người quả phu
Than ôi, tam giới mịt mù
Biết tìm đâu nhỉ cánh Thu tuyệt vời?
Kim Huê, ảnh của tình ơi!
Hoa rơi, hỏi ảnh sao phơi được cành?
Tình hoa, hoa ảnh, ảnh tình
Chẳng qua mộng huyễn, như mình với ta!
Thôi thì thôi, ý Ta-bà
Thôi thì thôi, nghĩa Ta-bà đó thôi!...
KIM LIÊN LÌA ĐỜI
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại... ngậm ngùi nuôi con,
Hai năm ruột héo gan mòn
Kim Liên thắm thoát tuổi tròn ba năm.
Vẫn là thiên lý đây chăng,
Kim Liên bóng mộng mùa trăng hoa vàng
Phút giây cũng biệt trần gian,
Thế là thôi, giữa nhân hoàn bao la
Giờ đây còn một mình ta
Với vô biên cả một tòa thương đau,
"Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày..."
Gốc Ba-la-mật là đây:
Chiếu cho rõ, Kiến cho ngay, vô thường…
XUẤT GIA CẦU ĐẠO
Vó câu in dấu đoạn trường
Quang âm dần tỏ soi đường... Quan Âm
Ái hà trôi nổi phù vân
Một tay dong cánh buồm tâm vượt dòng.
(Ấy ai gan thép chí đồng
Lửa thiêng tam-muội cháy hồng tim ta!)
Siêu nhiên quyết vượt ái hà
Một đi, lìa cửa lìa nhà lên non…
"Gió năm non thổi lòn hang dế..."
Tưởng công thầy Đạo đế tìm soi
Kiết già trên đỉnh xanh khơi
Quanh đầu hạnh, tỏa ngời ngời triêu dương
Chân tâm chiếu kiến tỏ tường
Bản lai diện mục sáng gương trăng Rằm,
Biển vàng sóng gợn lăn tăn
Thuyền ngư phủ bập bùng trăng lửa chài…
CHỨNG QUẢ BỒ-ĐỀ
Hải âu tung cánh thiên nhai
Chân tâm tung cánh vượt ngoài thiên không,
Đất thiêng rung động bảy lần
Biển thiêng rung động bảy tầng sóng thiêng,
Không sông, lại cũng không thuyền
Không bờ vui, lại biển phiền cũng không
Lấy gì thủy? Lấy gì chung?
Đã không sừng thỏ, lại không lông rùa
Không ta thì lấy chi tu?
Không tu không chứng, đạo Từ mãn khai
Mãn khai vô thượng liên đài
Trang nghiêm thị hiện Như Lai tọa thiền!
VIẾNG, LỄ THUNG HUYÊN
Một chiều trước cổng gia tiên
Bỗng dưng hiện một thanh niên rỡ ràng,
Trang nghiêm trong chiếc y vàng
Taycầm bát đất hào quang tỏa ngời,
Rằng: "Nay tôi chứng đạo rồi!”
Tam thiên đồng vọng tiếng lời Chơn như…
Thăm Nghiêm xong, lại lễ Từ
Thời gian hội ngộ cũng vừa đôi hôm.
Đoạn, y nguyền Chuyển luân vương
Lại quay về núi Trà-Lơn mây ngàn...
Ai lên non ẩn động vàng,
Người lên non để khai đàng núi xanh.
Thất Sơn bảy ngọn núi lành
Non linh tiếp khí thượng thanh diệu vời
Công xòe, phượng gáy thảnh thơi
Quả nơi phương tiện cho người tu tâm.
Một chiều có một khách nhân
Mến non, yêu đạo, gót chân băng ngàn
Gặp Người pháp tướng nghiêm trang
Tọa thiền dưới bóng bình an Bồ-đề,
Hoát nhiên sinh dạ kính vì
Rước người xuống núi trụ trì già-lam.
Tự rày đăng tỏa minh quang
Chốn Linh Bửu Tự, pháp đàn khai hoa,
Thiệu long thánh chủng Phật Đà
Giới nghi, Luật, Luận, tinh ba mở nguồn...
Mừng thay, quê vẫn còn hương
Mừng thay, hương tỏa mười phương nhân thừa
Kế truyền y bát nghìn xưa
Thiên gia phạn, vạn lý du – bóng hình...
Đời nay truyền đạo bằng Kinh
Phật xưa truyền đạo bằng hình bóng Như...
Tam thiên nữa cũng là hư
Pháp âm nữa cũng là dư âm thừa.
Còn đây, thường trụ chơn như
Một vừng viên nguyệt trên tờ Tâm Kinh,
Minh Đăng dõi bóng an bình
Bình an như cõi Vô sinh nhiệm mầu!
Dù nương thân mái chùa nâu
Vẫn vào ra chốn rừng sâu tham thiền
Gió to, cây cả vẫn bền
Giới nghi vẫn giữ trọn niềm thanh vân.
Qua năm bốn sáu (1946) xuất thần
Gặp Di Đà Phật thọ tâm ấn truyền.
Từ ngày thọ ký bề trên
MINH ĐĂNG QUANG mới thật nên danh người.
Đèn tâm soi tỏ nghìn nơi
Mười phương Phật, chín phương trời long lanh!...
“ A Di Đà Phật oai linh
Khiến tôi giải khổ vô minh kiếp này!”
Sông yêu nghìn thước nước
Bể khổ muôn sóng tà
Luân hồi muốn thoát khỏi
Mau niệm chữ Di Đà!...
THÀNH LẬP GIÁO HỘI
Một cành mà nở trăm hoa
Bóng Y Bát đẹp quê ta tự rày,
Chân truyền Khất Sĩ là đây
Bóng xưa với lại Hình này dặm không…
Đã không, không tới tận cùng
Nhất Y, nhất Bát dạo cùng nước non.
Đã không nhà cửa vợ con,
Lại không vướng bận vuông tròn thấp cao,
Đầy vơi trong đục sá nào,
Hải triều âm vọng ngọt ngào Tâm Kinh!
Bờ ao, vách miếu, mái đình
Sen thiêng thị hiện anh linh nhụy vàng.
Hương lừng khắp cõi dân gian
Xóm thôn dậy Pháp âm tràn sóng vui.
Như hướng dương theo mặt trời
Một người đi, cả vạn người theo chân!
Nền móng Đạo đắp xây lần
Tăng-già Khất Sĩ truyền chân Phật thừa.
ĐƯA ĐẠO VỀ THÀNH
Sài Gòn hoa lệ từ xưa
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàn
Một ngày kia, dưới nắng vàng
Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn Du Tăng
Dân thành thị những băn khoăn:
Họ là ai? Xin thưa rằng: Họ đây
Là môn đệ của Đức Thầy
MINH ĐĂNG QUANG - Chiếu tự rày mười phương
Sáng ơi ngọn đuốc chân thường
Đèn khơi nhật nguyệt, đuốc tường nhân duyên
Pháp luân chuyển, Hải triều lên
Đưa nhân loại vượt tam thiên diệu vời…
PHÁP TỎA MƯỜI PHƯƠNG
Đạo mầu bén rễ nơi nơi
Phú Lâm, Chợ Lớn, sen tươi một miền
Đình Cây Gõ, tự Kỳ Viên
Kỉnh dâng lên đức tôn nghiêm trụ trì,
Mùa thuyết pháp, hội quy y
Bốn phương thiện tín trẩy về dâng hương…
Sử mầu lần giở từng trương
Hạnh tu Khất Sĩ du phương Ta-bà
Khắp vùng non biển quê ta
Đâu đâu chẳng hiện bóng hoa Ưu-đàm,
Sen nghìn cánh tỏa hào quang
Tăng nghìn vị tỏa thơm đàng quê linh…
Suối mầu khởi tự non xanh
Chảy lai láng biển Thái Bình, trăm sông
Từ miền Nam đổ về Trung
Hương Giang vọng tiếng Cửu Long gọi mời,
Bây giờ tịnh xá trăm ngôi
Như trăm nhánh ngọc tươi chồi Vô ưu!
VU-LAN THẮNG HỘI
Ơn cha nghĩa mẹ trên đầu,
Biết bao ý nghĩa nhiệm mầu Vu Lan.
Trời tháng bảy, giọt mưa chan
Tưởng như hiếu tử hàng hàng lệ rơi.
Y theo tục lệ bao đời
Chư Tăng khất sĩ nơi nơi họp về.
Kỳ Viên nào thuở xưa kia
Mà nay biếc ngọc Bồ-đề lao xao
Từ nơi bể thẳm, rừng cao
Lễ thiêng Tự Tứ ngọt ngào đoàn viên.
Nghĩa này, hiếu đạo vi tiên
Nghĩa này, chung họp chú nguyền độ nhân
Nghĩa này, vi diệu thậm thâm
Mùa sen nở, thách mưa dầm gió may
Thậm thâm vi diệu nghĩa này
Vu-lan Tự Tứ là ngày đổi y
Tuổi đời thêm một, vân vi
Song song, tuổi đạo thêm kỳ diệu hương…
Đầu tiên lễ Vu Lan Bồn
Cử hành nơi chốn đạo trường Kỳ Viên
Một nghìn bốn tám (1948) dương niên,
Năm sau, lễ lại dời miền Vĩnh Long.
Vu Lan, hội mở khắp cùng
Từ miền Tây tới miền Đông rực vàng
Năm tư (1954), năm của đoạn tràng
Tôn Sư vắng bóng, Minh Quang nhạt ngời…
TÔN SƯ VẮNG BÓNG
Năm Giáp Ngọ, đầu tháng Hai
Vĩnh Long hoa nở đón người vân du,
Khi qua thuyền tới Cần Thơ
Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ “Cấp trên”,
Một xe vào cõi U huyền
Ai hay địa ngục giữa miền dương gian…
Tuồng đời hợp hợp tan tan
Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa,
Đêm Xuân tủi bóng trăng tà,
Đêm Thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu…
Bây giờ phượng ở nơi đâu?
Bóng chim, tăm cá, biển sâu sông dài…
Đã đành thường trụ Như Lai
Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không
Đã đành gương chiếu hoa lồng.
Đã đành đành vậy, mà lòng vẫn đau.
Bây giờ phượng ở nơi đâu
Để cho mây trắng một màu mênh mang…
MINH ĐĂNG BẤT DIỆT
Hỡi ai trong cõi nhân hoàn
Tự mình hãy thắp đuốc vàng mà đi.
Lời xưa Phật dạy còn ghi
Tâm đăng khơi tỏ, vậy thì Minh Đăng!
Thanh vân hiện cánh chim bằng
Nương theo Đại Thế Chí băng dặm Trời,
Đức Thầy dẫu vắng tăm hơi
Gương vàng ánh ngọc vẫn ngời Trung Tâm,
Dưới trên, Giáo hội một lòng
Cùng chư thiện tín kết vòng minh châu
Một trăm lẻ tám hạt mầu
Kết bằng sợi Pháp tròn xâu Bồ-đề.
Thời gian gió thoảng hoa lê
Hai mươi năm lẻ, sinh ly nghẹn ngào
“Non cao ai đắp nên cao
Sông sâu ai bới ai đào mà sâu?”…
Tung hô Phật Pháp nhiệm mầu
Vai mang nhật nguyệt Á châu lên đàng
Phất phơ muôn dặm y vàng
Đương kim Giáo Hội mở trang Đại thừa
Noi gương hùng lực ngàn xưa
Thiên nhiên cao phất ngọn cờ Siêu nhiên.
PHÁP VIỆN LÊN NGÔI
Cõi Nam kết tụ nhân hiền,
Minh Đăng Quang Pháp Viện nên công trình,
Trước nhờ Phật Tổ oai linh
Sau nhờ có Phật Tăng mình từ bi.
Non cao, bể rộng, ô kìa:
Đàn-na thí chủ sớm khuya dựng bồi.
Mai này Pháp Viện lên ngôi
Nam Phương phúc địa nẩy chồi muôn bông!
Rằm tháng Giêng, PL. 2517
(Vi tính: Tâm Duyên)
-------------------------------------------------------
Các bài liên quan
- xưa Minh Đăng Quang viết
- Nghĩa Trăm Năm
- Tại sao chọn Luật Tứ Phần?
- Hành Trang Vào Đời
- T Â M K H Ô N G
- Từ Nhân Loại Bước Đến Niết-bàn
- Phụ giải Công Lý Võ Trụ
- KHẢO CỨU BỘ CHƠN LÝ
- Ý ĐỊNH LÀ NIẾT-BÀN
- Đời là biển khổ
- TÍNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA TRIẾT LÝ THIỀN
- Năm Lửa bắt Thầy
- NGHI THỨC ĐÓNG CHUÔNG U MINH
- KHẤT SĨ BỒ-TÁT
- A-LA-HÁN
- BỒ-TÁT TRỤ XỨ
- Nhà bác học Albert Einstein nói về Phật giáo
- GIÁP NGỌ – NHÂM THÌN 58 NĂM
- Theo gót chân Người
- Thờ phượNG
- VÔ NGÃ & NGÃ
- Dấu xương để lại cho đời
- Nghiên cứu BỒ-TÁT GIÁO
- Giáo pháp Khất sĩ
- Chân tình Vu-lan
- Ngày Tổ sư trở về
- Tết 2-0-1-6
- Minh Đăng Quang truyền dạy Chơn lý
- Ai lên núi lửa trần gian
- Câu chuyện Sư tử đá
- Kiến – tánh
- Biểu tượng Đèn Chơn Lý
- Pháp ngữ của TS. Minh Đăng Quang
- Tham luận của HT. Minh Hồi
- Pháp tu Quan Thế Âm
- Tham luận của HT. Đức Nghiệp
- Tham luận của TT. Minh Thành
- Tham luận của TT. Nguyên Thành
- Tham luận của TT. Huệ Thông
- Câu đố cổ xưa của người Hy Lạp
- Tinh thần Trung đạo trong bộ Chơn Lý
- TRÍ & THỨC
- TÀ KIẾN CỦA NHỊ THỪA
- Cha Mẹ bơ vơ
- Nét đặc thù của đức Tổ sư MĐQ
- Những lời Khách Sáo
- Vắng Bóng
- THIỀN ĐỊNH NHƯ MỘT GIẤC NGỦ NGON !
- Chánh Pháp Vu-lan
- Ý nghĩa ngày Rằm tháng Tư Vesàkha
- Thuyền Bát-nhã (thơ Đạo)
- LỜI THẦY DẠY (Đức Thầy Giác An)
- “KINH CÀY RUỘNG” & Chơn lý “CHƯ PHẬT”
- HÃY SỐNG HẾT LÒNG MÌNH VỚI ĐẠO PHÁP (TT. Giác Tuấn)
- CON ĐƯỜNG TIẾN HÓA CỦA CHÚNG SANH (TT. Giác Pháp)
- SEN NỞ ĐÓN HẠ VỀ (Ni sư Minh Liên)
- LINH ẢNH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
- Ăn Chay và Sức Khỏe
- KỆ HỒI TÂM (Tổ Thiên Thai)
- NHỮNG BÀI CA GIẢI THOÁT