Đạo phật khất sĩ / Tư tưởng - Văn hóa / Ý nghĩa ngày Rằm tháng Tư Vesàkha
Ý nghĩa ngày Rằm tháng Tư Vesàkha
Tỳ-kheo Định Phúc
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện tại miền Bắc Ấn Độ, để sau này trở thành một bậc vĩ nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát của nhân loại...
Theo Kinh điển Phật giáo Nam truyền, ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 sự kiện: Bồ-tát Đản sanh, Bồ-tát Thành đạo và đức Phật viên tịch Niết-bàn. Ba sự kiện trọng đại, tuy khoảng cách thời gian khác nhau, nhưng xảy ra đều trùng hợp vào Rằm tháng Tư, đúng theo ý nguyện của đức Phật Gotama. Cho nên tất cả mọi người Phật tử, từ những bậc xuất gia đến các hàng tại gia cư sĩ trên toàn thế giới, đều lấy ngày Rằm tháng Tư làm ngày lễ cúng dường đức Phật, gọi là “Vesākhapūjā”.
Vào ngày Rằm tháng Tư cách nay 2636 năm, tại khu rừng Lumbinī (nay thuộc xứ Nepal), khoảng giữa kinh thành Kapilavatthu và kinh thành Devadaha, đức Bồ-tát Thái tử Siddhattha đản sinh kiếp chót từ lòng bà chánh cung hoàng hậu Mahāmayadevī của đức vua Suddhodana thuộc dòng dõi Sakya.
“Vị Bồ-tát khi sanh ra, ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau:
Ta là bậc tối thượng ở trên đời.
Ta là bậc tối tôn ở trên đời.
Ta là bậc cao nhất ở trên đời.
Nay là đời sống cuối cùng.
Không còn phải tái sanh ở đời này nữa.” [1]
Thái tử Siddhattha lớn lên trong cung vàng điện ngọc với ba tòa lâu đài nguy nga tráng lệ cùng những phi tần, vũ nữ múa hát ngày đêm, nhưng vẫn không quên được chí nguyện giải thoát từ bao kiếp quá khứ, ngài luôn suy tư về cuộc đời và lo âu về một con đường nào đó có thể giải thoát sự đau khổ, đem chúng sanh ra khỏi ngục tù u mê của thế gian
Bỏ lại phụ vương đã lớn tuổi, bỏ lại người vợ đẹp, đứa con thơ chưa biết mặt, bỏ lại sau lưng ngai vàng đế vương, ngài đã vượt hoàng thành trong đêm tối, quyết chí xuất gia tầm đạo. Đánh đổi áo mũ cân đai, lụa là gấm vóc để nhận lấy những cái gọi là khắc nghiệt nhất, đau khổ nhất, ngài thực hành phương pháp ép xác tu khổ hạnh trong sáu năm ròng rã nơi rừng vắng hoang vu. Và rốt cuộc, ngài đã từ bỏ nó, khi khám phá ra con đường Trung đạo – Majjhimapatipadā, con đường có tám chi phần có thể đưa chúng sanh thoát ly dòng sanh tử.
Vào canh chót đêm Rằm tháng Tư cách nay 2601 năm, tại cội đại Bồ-đề trong khu rừng Uruvela (nay gọi Bodh Gaya xứ Ấn Độ), tỉnh Senanigama, đức Bồ-tát Siddhattha chứng đắc thành Phật Chánh đẳng giác, có danh hiệu là đức Phật Gotama, vào năm ngài được 35 tuổi.
Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới Phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, Phạm thiên vô cùng vui mừng, hoan hỷ thốt lên lời: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!). Tiếng hoan hô vang dội khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, Phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến đức Phật và tán dương ca tụng đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.
Khi ấy, đức Thế Tôn tự thuyết hai bài kệ rằng:
“153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp
Người xây dựng nhà này
Khổ thay phải tái sanh!
154. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Người không làm nhà nữa!
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.” [2]
“Trong vô số lượng kiếp, Như Lai còn lặn lội tìm kiếm người thợ cất nhà thì sự sanh đã khiến Như Lai đau khổ không ngừng. Này người thợ nhà kia, ngươi đã bị Như Lai khám phá ra rồi, đừng hòng cất nhà cho Như Lai được nữa, sườn nhà, nóc nhà đã bị Như Lai phá vỡ và triệt hạ, tâm Như Lai hoàn toàn vô hành, vô nhiễm.”
Hai bài kệ cảm hứng tự thuyết đó là Phật ngôn đầu tiên của đức Phật.
Sau khi chứng quả Chánh biến tri, thay vì an hưởng quả vị siêu thoát một mình, nhưng với lòng từ bi vô lượng thúc đẩy, đức Phật đã không nỡ để cho chúng sanh chìm ngập khổ sầu mãi trong biển khổ trầm luân. Nên ngài đã nỗ lực suốt 45 năm trường đem đạo vàng truyền bá khắp nơi, nhằm một mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc và giải thoát cho chư thiên và nhân loại.
Mỗi ngày đêm, đức Phật luôn tinh tấn làm năm phận sự (gọi là Buddhakicca – Phận sự của đức Phật):
1. Phận sự đi khất thực buổi sáng
Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, có khi đức Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng sinh nào đó, có khi đức Phật ngự cùng với chư Tỳ-kheo Tăng đi vào xóm, vào kinh thành để khất thực. Khi đức Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh đức Phật thuyết pháp, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo thọ trì Ngũ giới, có số xin đức Phật cho phép xuất gia… Xong rồi đức Phật ngự trở về tịnh xá.
2. Phận sự sau khi độ ngọ
Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi chư vị thiện nam tín nữ, đức Phật lui về tịnh thất. Nếu muốn, ngài nằm nghiêng mình bên mặt và định thần một lát. Lúc dậy, ngài nhập Đại bi định và dùng Phật nhãn quan sát thế gian, xem các vị Tỳ-kheo đã đi vào rừng sâu hành thiền nơi vắng vẻ và các vị đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên dạy. Nếu có một vị ở xa cần được hỗ trợ, ngài dùng thần thông bay đến nơi để tế độ rồi trở về tịnh thất.
3. Phận sự canh đầu đêm.
Đức Phật giáo huấn chư Tỳ-kheo, có số Tỳ-kheo hỏi về Pháp, về Luật; có số Tỳ-kheo xin thọ pháp hành Thiền định, pháp hành Thiền tuệ; có số Tỳ-kheo nghe pháp… Qua hết canh đầu, chư Tỳ-kheo đảnh lễ Đức Phật trở về chỗ ở của mình.
4. Phận sự canh giữa đêm.
Đức Phật cho phép chư thiên, Phạm thiên trong 10.000 thế giới đến hầu ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Đức Phật giảng giải những câu hỏi của chư thiên, Phạm thiên xong, hết canh giữa, chư thiên, Phạm thiên đảnh lễ đức Phật rồi trở về cảnh giới của mình.
5. Phận sự canh chót đêm.
Đức Phật phân chia canh chót làm ba thời:
- Thời đầu ngài đi kinh hành.
- Thời giữa ngài ngự vào hương thất (Gandhakuṭi, cái cốc thơm) để nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, định giờ tỉnh dậy.
- Thời chót ngài nhập thiền Đại bi. Khi xả thiền, ngài quán xét chúng sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật nhãn, xem xét chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với ngài, hoặc đã từng tạo ba-la-mật từ chư Phật quá khứ đến kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả và Niết-bàn… ngài đều ngự đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay xa, trong thế giới này hay thế giới khác.
Có khi đức Phật ngự cùng với chư Tỳ-kheo du hành khắp mọi nơi để tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ. Suốt 45 năm, mỗi ngày, mỗi đêm đức Phật đều hành đầy đủ năm phận sự cho đến phút giây cuối cùng tịch diệt.
Đến ngày Rằm tháng Tư năm ngài được 80 tuổi, Thế Tôn cùng chư Tỳ-kheo ngự đến khu rừng Sālā ở xứ Kusinārā của Hoàng tộc Malla, để tế độ vị đạo sĩ Subhadda, bậc Thanh Văn đệ tử cuối cùng của đức Phật; bởi vì ngoài ngài ra, không có một vị nào có khả năng tế độ đạo sĩ Subhadda được.
Vào canh chót, đức Phật gọi đại đức Ānanda khuyên dạy rằng:
“Này Ānanda, trong số các con, nếu có người nào nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, chúng ta không còn đức Tôn sư”, thì các con chớ có nên nghĩ như vậy.”
Đức Phật dạy tiếp rằng:
“Này Ānanda, Pháp và Luật do ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các con.” [3]
Sau đó, đức Thế Tôn một lần nữa nhắc nhở khuyên bảo các hàng Thanh Văn đệ tử lần cuối cùng rằng:
“Này các Tỳ-kheo, nay ta khuyên dạy các ngươi: “Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật.”.” [4]
Lời dạy này của đức Phật là lời dạy cuối cùng của ngài (Pacchimabuddhavacana) dành cho các đệ tử như là lời di huấn tối hậu.
Đức Phật Gotama, Bậc Cao Cả nhất, Bậc Vĩ Đại nhất, Bậc Tối Thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh, đã tịch diệt Niết-bàn như thế.
Như vậy, ngày Rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ-tát đản sanh, mà còn là ngày Bồ-tát Thành đạo và ngày đức Phật nhập Niết-bàn.
Ngày nay, cứ mỗi mùa trăng tròn tháng Tư, hàng triệu tín đồ Phật giáo trên khắp thế giới đều hướng tâm về đức Phật Gotama. Ngài đã viên tịch Niết-bàn, nhưng ân đức của ngài vẫn còn mãi theo dòng thời gian. Tuy đức Phật đã tịch diệt cách đây 2556 năm rồi, song Giáo pháp của ngài vẫn còn được tồn tại đầy đủ trọn vẹn 84.000 pháp môn cho đến ngày nay.
Nhân dịp Đại lễ Tam hợp, kính chúc chư tôn đức Tăng pháp thể khinh an, thân tâm thường lạc, Phật sự viên thành và trí đạo viên mãn. Kính chúc quý Phật tử một mùa lễ hội Rằm tháng Tư thật an lành và tràn đầy phước báu.
[1] Trường Bộ Kinh I, Kinh Đại Bổn.
[2] Pháp Cú Kinh, câu 153-154.
[3] Trường Bộ Kinh I, Kinh Đại Bát Niết-bàn.
[4] Sđd.
Các bài liên quan
- xưa Minh Đăng Quang viết
- Nghĩa Trăm Năm
- Tại sao chọn Luật Tứ Phần?
- Hành Trang Vào Đời
- T Â M K H Ô N G
- Từ Nhân Loại Bước Đến Niết-bàn
- Phụ giải Công Lý Võ Trụ
- KHẢO CỨU BỘ CHƠN LÝ
- Ý ĐỊNH LÀ NIẾT-BÀN
- Đời là biển khổ
- TÍNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA TRIẾT LÝ THIỀN
- Năm Lửa bắt Thầy
- NGHI THỨC ĐÓNG CHUÔNG U MINH
- KHẤT SĨ BỒ-TÁT
- A-LA-HÁN
- BỒ-TÁT TRỤ XỨ
- Nhà bác học Albert Einstein nói về Phật giáo
- GIÁP NGỌ – NHÂM THÌN 58 NĂM
- Theo gót chân Người
- Thờ phượNG
- VÔ NGÃ & NGÃ
- Dấu xương để lại cho đời
- Nghiên cứu BỒ-TÁT GIÁO
- Giáo pháp Khất sĩ
- Chân tình Vu-lan
- Ngày Tổ sư trở về
- Tết 2-0-1-6
- Minh Đăng Quang truyền dạy Chơn lý
- Ai lên núi lửa trần gian
- Câu chuyện Sư tử đá
- Kiến – tánh
- Biểu tượng Đèn Chơn Lý
- Pháp ngữ của TS. Minh Đăng Quang
- Tham luận của HT. Minh Hồi
- Pháp tu Quan Thế Âm
- Tham luận của HT. Đức Nghiệp
- Tham luận của TT. Minh Thành
- Tham luận của TT. Nguyên Thành
- Tham luận của TT. Huệ Thông
- Câu đố cổ xưa của người Hy Lạp
- Tinh thần Trung đạo trong bộ Chơn Lý
- TRÍ & THỨC
- TÀ KIẾN CỦA NHỊ THỪA
- Cha Mẹ bơ vơ
- Nét đặc thù của đức Tổ sư MĐQ
- Những lời Khách Sáo
- Vắng Bóng
- THIỀN ĐỊNH NHƯ MỘT GIẤC NGỦ NGON !
- Chánh Pháp Vu-lan
- Thuyền Bát-nhã (thơ Đạo)
- LỜI THẦY DẠY (Đức Thầy Giác An)
- “KINH CÀY RUỘNG” & Chơn lý “CHƯ PHẬT”
- HÃY SỐNG HẾT LÒNG MÌNH VỚI ĐẠO PHÁP (TT. Giác Tuấn)
- CON ĐƯỜNG TIẾN HÓA CỦA CHÚNG SANH (TT. Giác Pháp)
- SEN NỞ ĐÓN HẠ VỀ (Ni sư Minh Liên)
- LINH ẢNH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
- Ăn Chay và Sức Khỏe
- Thi hóa tiểu sử Tổ Sư Minh Đăng Quang
- KỆ HỒI TÂM (Tổ Thiên Thai)
- NHỮNG BÀI CA GIẢI THOÁT